19 tháng 5, 2019

Từ xưa đến nay, phàm là người làm được việc lớn thì đều có khả năng nhẫn nại, khả năng nhẫn nại lớn đến đâu thì làm được việc lớn đến đó.
Cổ nhân có câu: “Không nhịn được việc nhỏ, sẽ làm hỏng việc lớn”. Người nhẫn nhịn thường kín đáo, trí tuệ rộng lớn, biết nhìn xa trông rộng.
Lão Tử nói: “Thiên Đạo không tranh mà Thiện thắng, không nói mà Thiện ứng”. Phật giáo giảng: “Trong sáu phép độ và hàng vạn phương pháp tu hành, ‘Nhẫn’ là đệ nhất”. Khổng Tử cũng nói rằng: “Việc nhỏ không nhẫn, tất loạn việc lớn”, hay: “Bậc quân tử không có tranh giành”. Tất cả đều giảng về Đạo “Nhẫn”.
Trong lịch sử còn lưu lại nhiều câu chuyện nhờ có Nhẫn mà làm được việc lớn.

Trần Quốc Tuấn nhẫn nhịn cho đại sự

Năm 1281, nhân lúc nhà Trần có sự biến động, Vua Trần Thái Tông đã mất, Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con là Trần Nhân Tông. Nhà Nguyên sai Lễ bộ thượng thư là Sài Thung cùng ngàn quân hộ tống sang sứ nước ta.
Sài Thung đến kinh thành nghênh mặt kiêu ngạo, cưỡi ngựa thẳng vào cửa Dương Minh, bị quân lính ngăn cản, Sài Thung không xuống ngựa mà còn dùng roi ngựa đánh thẳng vào mặt quân lính khiến họ bị thương ở đầu.
Sài Thung trách vua Trần lên ngôi nhưng không sang thiên triều để chầu, yêu cầu vua Trần phải sang Nguyên đề chầu và triều cống.
Vua sai Trần Quang Khải đến sứ quán tiếp Thung, thế nhưng Sài Thung nằm khểnh không ra. Quang Khải vào hẳn trong phòng, Thung cũng không dậy tiếp.
Biết tin, Trần Quốc Tuấn xin vua tiếp sứ quân Nguyên, khi Quốc Tuấn đến Sài Thung liền vái chào rồi mời ngồi dùng trà. Thì ra Quốc Tuấn đã gọt đầu ăn mặc giả làm nhà sư Tàu khiến Sài Thung phải tiếp.
Khi tiếp kiến Quốc Tuấn, Sài Thung biết người đối diện mình là ai, liền đưa mắt ra hiệu cho lính hầu, lính hầu hiểu ý liền từ đằng sau lấy mũi tên đâm vào đầu Trần Quốc Tuấn đến chảy máu, thế nhưng ông vẫn nhẫn chịu, điềm nhiên nói chuyện như không có chuyện gì xảy ra.
Dù rất đau nhưng do Đại Việt đang ở thế yếu, nên Trần Quốc Tuấn chủ động hòa hoãn, nhằm trì hoãn cuộc chiến tranh với nhà Nguyên, để Đại Việt có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng. Nhờ đó phải đến 4 năm sau, quân Nguyên mới đem binh sang xâm lược đại Việt, lúc đó lực lượng quân ta đã mạnh hơn, đủ sức chống giặc.

Trần Quốc Tuấn sau này đã trở thành vị Hưng Đạo Đại Vương lưu danh sử sách
Khi 50 vạn đại quân Nguyên tiến đánh nước ta, vận nước rối ren, nhiều người nhắc lại mối thù nhà năm xưa, để Trần Quốc Tuấn nhân cơ hội này trả thù xưa và lên ngôi vua. Theo đó, cha của Trần Quốc Tuấn là An Sinh Vương Trần Liễu trước khi chết nhắc lại mối thù nhà với Vua và còn nói rõ: “Con không vì cha mà lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.”
Thế nhưng Trần Quốc Tuấn không vì tư thù mà làm hỏng việc nước, trước nhiều lời nhắc lại mối tư thù này, trên đường hành quân ông nhẫn nhịn cắm cây kiếm mạnh xuống đất đến gãy cả mũi kiếm, thể hiện quyết tâm lo cho an nguy của xã tắc.
Chính vì có tâm Đại Nhẫn như vậy, Trần Quốc Tuấn mới làm được việc lớn, làm Quốc Công Tiết Chế (Tổng chỉ huy quân đội) đánh với quân Nguyên Mông 2 lần (lần thứ hai và thứ 3), lần nào cũng giành đại thắng, khiến quân Nguyên đại bại tâm phục khẩu phục không còn dám nghĩ đến chuyện sáng đánh nước ta thêm một lần nào nữa.
Đức tính nào giúp Tư Mã Ý ngăn được Gia Cát Lượng?
Lần cuối cùng Gia Cát Lượng đưa quân ra Kỳ Sơn phạt Ngụy, Tư Mã Ý hiểu rõ mình là không phải đối thủ của Gia Cát Lượng nên cố thủ không giao chiến. nhưng Gia Cát Lượng lừa được Tư Mã Ý là quân Thục đang cất lương thực trên núi. Tư Mã Ý quyết định đến núi cướp lương nhằm ép Gia Cát Lượng hết lương thực phải rút về.
Tại hang Thượng Phương quân Ngụy bị Gia Cát Lượng dùng hỏa công tiêu diệt, trong lúc cha con Tư Mã Ý ngửa mặt lên trời than khóc chờ chết thì một cơn mưa lớn trút xuống cứu thoát toàn bộ quân Ngụy.
Tư Mã Ý rút quân về bờ nam sông Vị Thủy hạ trại và ra lệnh cho các tướng quyết không được ra đánh. Quyết kiên nhẫn cố thủ trong thành để ngăn quân Thục.
Gia Cát Lượng đưa quân đến khiêu chiến, dùng đủ mọi cách khiêu khích, hạ nhục, đến chửi mắng quân Ngụy, nhiều tướng Ngụy không sao chịu nhục được, muốn quyết một phen đánh với quân Thục, nhưng Tư Mã Ý không đồng ý và quyết thủ trong thành.
Tạo hình Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý trong phim (Ảnh qua Kienthuc.net.vn)
Tư Mã Ý biết rằng quân Thục hành quân từ xa đến, thì việc tiếp tế chi viện sẽ hết sức khó khăn. Chỉ cần cố thủ, quân Thục lương hết sẽ phải rút về.
Đây gọi là lấy ‘tĩnh chế động’, không đánh khi kẻ địch đang có lợi thế, chỉ đánh khi quân mình có lợi thế. Đợi thời cơ đến sẽ có thể ‘chuyển bại thành thắng’, tuyệt đối không manh động làm hỏng đại sự, đó chính là cái tài của người dùng binh vậy. Nhưng để thực hiện được kế này thì cần phải có “Nhẫn”.
Thấy mắng nhiếc không có tác dụng, Gia Cát Lượng mang khăn, yếm, cùng bộ đồ đàn bà rồi cho người đưa sang tặng cho Tư Mã Ý kèm theo lá thư sau:
“Trọng Đạt (tên tự gọi của Tư Mã Ý) đã làm đại tướng, thống lĩnh quân Trung Nguyên, không dám mặc giáp cầm gươm, để quyết sống mái mà chịu ngồi núp ở trong tối trong hang, để lánh lưỡi đao mũi tên, thế thì khác gì đàn bà? Nay sai người đưa khăn yếm quần áo trắng của đàn bà đến, nếu không dám ra đánh, thì phải lạy hai lạy mà nhận lấy; nếu còn biết xấu hổ, có chí khí người con trai, thì phải phê vào giấy này, y hẹn ra giao chiến”.
Thời đấy nữ nhi không như bây giờ, phụ nữ thời đấy hầu như không tham gia chính sự, chỉ ở nhà giữ mái ấm gia đình. Việc đưa đồ đàn bà cho Tư Mã Ý là sự sỉ nhục vô cùng to lớn, là điều mà không một ai có thể chịu đựng được.
Người xưa có câu: “Sĩ khả sát, bất khả nhục”, nghĩa là kẻ sĩ thà bị chết chứ không chịu nhục. Tư Mã Ý có thể chịu nhẫn nhục thêm một lần nữa, nhưng các tướng sĩ khác không sao chịu nhục thêm được, bất chấp quân lệnh muốn ra trận ngay.
Tư Mã Ý trước đấy đã tâu với Vua xin giữ thành không đánh rồi, nay bèn nhắc lại với các tướng của mình rằng: “Ta có phải muốn chịu nhục đâu, bởi vì thiên tử giáng chiếu, sai giữ vững không cho ra đánh, nếu ta khinh động, thì trái quân mệnh mất”.
Thấy các tướng bực dọc không bằng lòng, Tư Mã Ý đành nói: “Các ngươi nếu muốn đánh, đợi ta tâu với thiên tử, rồi sẽ đồng lực ra đánh giặc, được chăng?”
Nói rồi, Tư Mã Ý cho người mang thư báo cho Ngụy Chủ rằng: “Thần tài nhỏ trách nhiệm to… chiếu chỉ sai thần giữ vững không đánh, để đợi quân Thục tự nhiên phải tan. Nhưng nay Gia Cát Lượng sai người đưa khăn yếm, coi thần như đàn bà, thần lấy làm sỉ nhục lắm. Thần kính tâu trước vời bệ hạ, sớm tối xin liều một trận đại chiến để báo ơn triều đình, mà rửa cái xấu hổ cho ba quân. Thần cảm kích không biết ngần nào”.
Vua Ngụy là Tào Tuấn xem xong, hỏi các tướng rằng: “Tư Mã Ý trước xin giữ vững không đánh, nay lại dâng biểu xin đánh là cớ làm sao?” Vệ uý là Tân Tỷ tâu rằng: “Tư Mã Ý vốn không có bụng muốn đánh, đây là Gia Cát Lượng sỉ nhục, các tướng căm tức, cho nên dâng biểu lên, là có ý muốn cầu chiếu chỉ để trấn bụng các tướng đấy thôi.”
Tào Tuấn lấy làm phải, sai Tân Tỷ cầm cờ tiết đến trại Vị Bắc, truyền lời dụ không được ra đánh. Nếu ai dám nói đến sự đánh, thì ghép vào tội trái chiếu chỉ nhà vua. Các tướng đều phải tuân theo. Ý bảo với Tân Tỷ rằng: “Ông thực là biết bụng tôi lắm!”
Gia Cát Lượng được tin liền nói: “Tư Mã Ý vốn không dám đánh, xin đánh là thị oai với chúng đó thôi. Có câu rằng: ‘Tướng ở ngoài, dù vua sai có điều không nghe cũng được’. Lẽ đâu cách xa nghìn dặm, mà phải xin lệnh đánh bao giờ? Đây vì Tư Mã Ý nhân các tướng tức giận, cho nên mượn ý Tào Tuấn để trấn bụng chúng và truyền lời ấy ra, để quân ta sinh trễ nải đó thôi.”
Sau đó Gia Cát Lượng gặp bệnh mà mất, quân Thục phải rút về. Gia Cát Lượng dù được xem là không có đối thủ, thế nhưng Tư Mã Ý đã dùng sự Nhẫn nhịn to lớn của mình mà đẩy lui được đại quân của Gia Cát Lượng.
Lý Mục dùng Đại Nhẫn đánh bại đại quân Hung Nô
Lý Mục là danh tướng nước Triệu thời Chiến Quốc, thời gian này quân Hung Nô thường tràn biên giới nước Triệu cướp bóc, khi quân Triệu đánh chỗ này thì đến chỗ khác cướp, khi quân Triệu rút thì lại tràn sang cướp. Vì thế quân Triệu không có biện pháp nào để chặn quân Hung Nô.
Lý Mục được giao quân đóng ở vùng biên giới để ngăn chặn quân Hung Nô. Ông đưa ra kế sách vườn không nhà trống, rồi nhẫn nhịn cố thủ trong thành mà không đánh, ai trái lệnh tham chiến bị xử theo quân lệnh. Quân Hung Nô đến dù không bị đánh nhưng gặp phải vườn không nhà trống thì không cướp được phải tự rút về.
Triệu Vương cho rằng Lý Mục hèn nhát không đánh, nhắc nhở nhiều lần nhưng Lý Mục cứ vờ như không nghe. Triệu Vượng bèn thay tướng khác đến đem quân giao chiến nhiều trận với Hung Nô, kết quả quân Hung Nô quen địa thế và thông thạo tập kích đã đánh cho quân Triệu đại bại.
Lúc này Triệu Vương đành phục chức cho Lý Mục để chặn quân Hung Nô, Lý Mục ra điều kiện không được can thiệp vào kế sách của ông.
Danh tướng Lý Mục (Ảnh: Sina)
Lý Mục tiếp tục thực hiện kế sách cũ, thực hiện vườn không nhà trống và thủ trong thành, củng cố lực lượng, quyết không giao chiến.
Sau vài năm, lúc này quân Lý Mục có 1.300 chiến xa, 13.000 chiến mã, 5 vạn binh, 10 vạn cung thủ, thế nhưng quân Hung Nô không biết lực lượng quân Triệu. Mặt khác sau vài năm cướp bóc quân Hung Nô đã quen với cảnh quân Triệu chết nhát chỉ lo phòng thủ chứ không tham chiến, nên nghênh ngang như chỗ không người mà chẳng phải lo gì, rất chủ quan khinh địch.
Khi sĩ khí lên cao, Lý Mục chủ động đưa quân tấn công quân Hung Nô rồi giả thua vứt hết khí giới bỏ chạy, quân Hung Nô chủ quan đưa hết 10 vạn kỵ binh tràn sang biên giới quyết đuổi theo quân Triệu và rơi vào trận phục binh do Lý Mục chuẩn bị sẵn. Hai cánh quân của Lý Mục xông ra đánh bại 10 vạn đại quân Hung Nô, từ đó trở về sau quân Hung Nô vô cùng sợ hãi không còn dám cướp phá nữa.
Nhờ nhẫn nhịn vài năm mà chỉ một trận đánh Lý Mục đã khiến quân Hung Nô đại bại không còn dám cướp phá như trước nữa.
Hàn Tín chịu nhục chui háng
Hàn Tín là đại tướng quân của Lưu Bang, ông đã đánh bại nhà Tần, chặn Sở, diệt Ngụy, lấy Triệu, thu Yên, thu Tề, đánh trận “thập diện mai phục” với Hạng Vũ lưu danh sử sách, cuối cùng khiến nhà Hán lập nên nghiệp Đế. Sở dĩ ông có năng lực lớn thế là nhờ có tâm Đại Nhẫn.
Thời còn trẻ Hàn Tín luyện võ, học phép dùng binh và thường khoác bảo kiếm đi ngoài đường. Một hôm, ngay trên phố sá sầm uất, Hàn Tín mang kiếm đang đi trên đường thì gặp một đám côn đồ, một trong số chúng hét lên: “Này, ngươi trông thật nhát gan. Tại sao ngươi mang kiếm?”
Hàn Tín không muốn trả lời và chỉ muốn đơn giản bước đi. Điều này khiến đám côn đồ vô lại giận dữ hơn nữa. “Nếu nhà ngươi có gan giết ta thì hãy rút kiếm đâm ta xem nào. Nhưng nếu nhà ngươi nhát gan thì phải chui háng ta!”
Hàn Tín có tâm Đại Nhẫn nên mới thành nghiệp lớn (Ảnh: Internet)
Đám đông tụ lại hồ hởi theo dõi xem sự việc thế nào. Kẻ vô lại thấy Hàn Tín không dám đâm liền dang rộng hai chân ra thách thức. Hàn Tín dù là tay kiếm rất giỏi nhưng không muốn phạm pháp, nên đã cúi mình bò dưới hai chân kẻ vô lại kia. Những kẻ đứng xem đều cười lên thích thú chế giễu Hàn Tín hèn nhát mà cũng mang theo kiếm.
Hàn Tín sau này trở thành Đại tướng quân của Lưu Bang, giúp Lưu Bang đánh thắng hết trận này đến trận khác. Lưu Bang không có Hàn Tín giúp thì cũng không thể lập ra nhà Hán được. Bản tính khoan dung và tâm đại nhẫn phi thường của Hàn Tín đã đặt nền móng cho sự thành công của ông.
Nếu như lúc đó Hàn Tín vung kiếm vì bị chọc giận, ông sẽ bị xét xử vì tội sát nhân, và con đường học tập của ông sẽ bị gián đoán ảnh hưởng, làm hỏng cả tiền đồ phía trước.

Nội hàm của chữ Nhẫn

Chữ Nhẫn (忍) gồm có chữ tâm (心) ở dưới vì chữ đao tức dao (刀) ở trên. Chữ “dao” có hàm ý phải tôi luyện, mãi dũa mà thành.
Chỉ người có tâm Đại Nhẫn mới làm được việc to lớn
Chữ đao (刀) này còn có thêm một nét gạch nữa thể hiện độ sắc bén của dao kề vào trái tim tức chữ tâm ở dưới. Ý nghĩa một con dao sắc bén cứa vào tim đối với người bình thường phải rất đau đớn quằn quại.
Thế nhưng chữ tâm nằm ở dưới chính là nền tảng của cả chữ “Nhẫn”. Tâm này vẫn bất động, dù dao kia có sắc đến đâu. Nếu tâm dao động thì không Nhẫn được, nếu tâm tĩnh thì càng nhẫn, càng bất động tâm càng thể hiện ra tâm Đại Nhẫn.
Chỉ người có tâm Đại Nhẫn mới làm thành được được việc to lớn, những ai sống chỉ vì tranh vì đấu, suốt đời sống trong ủy mị, dằn vặt và đau khổ, họ không thể làm được việc gì lớn lao cả.
Trần Hưng
------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét