KINH NA TIÊN TỲ KHEO
Cao Hữu Ðính dịch Việt
Mục lục
Lời
giới thiệu
Lời nói đầu
Phần I
1.
Vô
Ngã hay Danh
2.
Danh
số
3.
Cách
nói chuyện của hiền giả và vương giả hay điều kiện đối thoại.
4.
Di
Lan Ðà thỉnh Na Tiên vào hoàng cung
5.
Cứu
cánh đích thực của bậc xuất gia
6.
Nguyên
nhân luân hồi và phương pháp giải thoát.
7.
Pháp
lành.
8.
Tương
quan giữa thân trước và thân sau.
9.
Tự
biết hết tái sanh.
10.
Trí
và Minh.
11.
Ðắc
đạo rồi có còn đau khổ không ?
12.
Vui
khổ thiện và bất thiện
13.
Danh
thân tái sanh
14.
Ðã
hỏi rồi không nên hỏi lại
15.
Danh
và thân tương liên
16.
Thời
gian
17.
Ðầu
mối của sanh tử
18.
Nhân
duyên sanh
19.
Linh
hồn
20.
Liên
hệ giữa căn và tâm thần
21.
Xúc
22.
Cảm
thọ
23.
Giác
24.
Sở
niệm
25.
Nội
động
26.
Nỗi
lòng
27.
Muối
28.
Duyên
nghiệp của tri giác
29.
Nguyên
nhân bất bình đẳng giữa loài người
30.
Phải
sớm làm điều lành.
31.
Lửa
địa ngục
32.
Nước
dựa trên không khí
33.
Niết
Bàn
34.
Phật
có ra đời
35.
Phật
là tối thắng
36.
Thân
cũ không tái sanh
37.
Thân
mất, việc làm còn
38.
Không
thể biết quả báo về sau.
39.
Niết
Bàn ở đâu?
40.
Vì
sao Sa môn săn sóc cái thân?
41.
Tại
sao Phật không giống cha mẹ?
42.
Chơi
chữ.
43.
Ai
truyền giới cho Phật?
44.
Giọt
nước mắt lành.
45.
Mê
ngộ khác nhau.
46.
Trí
nhớ.
47.
Mười
sáu cách nhớ.
48.
Phật
là Ðấng Toàn Giác.
49.
Nhân
it, quả nhiều.
50.
Ngừa
giặc khi chưa đến.
51.
Thần
thông chẳng quản xa gần
52.
Cùng
đến một lượt
53.
Bảy
sự việc tựu thành giác ngộ.
54.
Làm
việc lành nhỏ được phước lớn.
55.
Kẻ
trí làm điều dữ ít bị tai vạ hơn người ngu.
56.
Bay
lên trên không.
57.
Xương
dài bốn ngàn dặm.
58.
Ngừng
hơi thở.
59.
Biển.
60.
Trí
tuệ soi thấu tất cả.
61.
Thần
hồn, trí và thức.
62.
Phật
làm được việc khó làm.
63.
Lời
cuối cùng.
----o0o----
Lời
giới thiệu
Na Tiên Tỳ Kheo Kinh là một bộ kinh phản
ảnh đầy đủ những đường nét chính của Giáo lý Nguyên Thủy. Nhưng nếu chỉ có thế
thôi thì kinh này chỉ là một bản trùng tuyên vô vị, không đáng được có một địa
vị Tam Tạng Thánh Giáo.
Ðặc sắc của kinh này dĩ nhiên không phải ở
chỗ trùng tuyên vô bổ ấy. Ðặc tánh của nó là chính ở những ví dụ rất khế lý và
khế cơ mà Ngài Na Tiên đã khéo sử dụng để làm sáng tỏ các chủ điểm giáo lý căn
bản của Phật Giáo Nguyên Thủy. Các ví dụ rất linh động ấy là hoàn toàn do ngài
sáng chế để đóng góp vào chánh pháp và thúc đẩy bánh xe Chánh Pháp chuyển mau
thêm.
Kinh này xuất hiện vào thời kỳ nào? Căn cứ
vào tiểu sử vua Di Lan Ðà, người mà Na Tiên đã đối thoại và trực tiếp giáo hóa,
thì Na Tiên sống vào tiền bán thế kỷ II trước Tây lịch. Cuộc đối thoại về giáo
lý giữa Thầy (Na Tiên) và trò (Di Lan Ðà), nếu xét sâu vào nội dung thì thấy
quả thật là thú vị và hấp dẫn. Vì vậy, nội dung đối thoại nầy bấy giờ được
truyền tụng, được các giới Phật Tử tôn thờ gần ngang hàng với các kinh do kim
khẩu Phật nói ra. Cũng nên biết rằng, đặc biệt với Phật Giáo Miến Ðiện, kinh
này được nhiếp thâu vào Tiểu Bộ Kinh tức bộ thứ năm trong Ngũ Bộ Kinh của Giáo
điển Nguyên Thủy. Vậy niên đại xuất hiện của kinh nầy, sớm nhất là vào khoảng
thế kỷ I trước Tây lịch. Và nơi chốn xuất hiện lần đầu tiên hẳn phải là miền
Tây Bắc Ấn Ðộ, trên lưu vực Ngũ Hà, nơi đã xảy ra cuộc đối thoại ấy.
Vì nội dung kinh này là một lợi khí truyền
bá Phật giáo rất mạnh, nên không bao lâu sau, lan rất nhanh sang lưu vực sông
Hằng rồi từ đấy tràn lan khắp Ấn Ðộ, cho đến Tích Lan. Do đó mà tuy nội dung
vốn một nhưng kỹ thuật kiết tập thì lại mỗi địa phương một khác. Các bản kiết
tập tại lưu vực sông Hằng về sau thành kinh Milindapanhà (Di Lan Ðà vấn kinh),
được truyền bá sang Tích Lan và các nước Nam Phương Phật giáo. Các bản kiết tập tại Tây Bắc Ấn Ðộ thì
được truyền bá lên Trung Á rồi sang Trung Hoa và Tây Tạng, mệnh danh là Na Tiên
Tỳ Kheo Kinh.
Riêng Na Tiên Tỳ Kheo Kinh truyền qua Trung Hoa cũng đã có ba bản
dịch khác nhau. Cả ba bản đều mất tên người dịch nên không rõ là đã dịch vào
thời đại nào. Chỉ thấy Ðại Tạng ghi là “Phụ Ðông Tấn Lục”. Văn dịch rất xưa và
hơi tối nghĩa. Căn cứ vào đó, ta có thể suy đoán rằng các bản dịch nầy có lẽ đã
được thực hiện vào khoảng đời Tam Quốc hay đời Tây Tấn, nghĩa là khi Phật Giáo
mới du nhập Trung Hoa.
Hiện trong Ðại Tạng chỉ thấy có hai bản,
ghi số 1670 A va 1670 B. Bản 1670 A phóng theo các bản in đời Tống, đời Nguyên
mà hiệu đính lại. Bản 1067 B căn cứ vào bản in đời Minh nhưng cũng có đối chiếu
với hai bản đời Tống và đời Nguyên mà hiệu đính. tuy đã có hiệu đính rồi mà cả
hai bản vẫn còn tối nghĩa.
Nay nhân đạo hữu Cao Hữu Ðính phụ trách
dạy kinh này tại Phật Học Viện Nha Trang, đạo hữu bèn gia công sưu khảo nghiên
cứu, nhằm mục đích làm sáng tỏ thêm nghĩa kinh. Ông căn cứ vào cả hai bản nhất
là bản 1670 B rồi tham khảo với Kinh Milindapanhà của Phật giáo Nam Phương và
bản dịch Pháp văn kinh này, soạn thành bài học dạy cho Học Tăng ở Phật Học
Viện, Trung Phần tại Nha Trang do tôi điều khiển.
Xét thấy phần đầu, tức duyên khởi của kinh
Milindapanhà và của Na Tiên Tỳ Kheo Kinh, hai bên không giống nhau nên đạo hữu
đã cho lướt qua, đợi tham cứu sau. Thay vào đó, ông viết một "Lời Nói
Ðầu" ghi lại tiểu sử vua Di Lan Ðà và ngài Na Tiên, cùng là bối cảnh lịch
sử thời bấy giờ. Nội dung đối thoại thì giữ lại trọn vẹn và gắng diễn dịch thế
nào trung thành với ý kinh. Trong trường hợp gặp những danh từ mà nay đã biến
nghĩa, đạo hữu đã tùy nghi châm chế cải đổi chút đỉnh, để độc giả dễ dàng lãnh
hội ý chính.
Ðọc hết loại bài của đạo hữu biên soạn,
tôi lấy làm vừa ý, nên vội cho xuất bản, hầu mong cung cấp món ăn giáo lý cần
thiết cho Phật tử bốn phương.
Vậy, xin có mấy lời giới thiệu với chư
Phật tử và thiện hữu tri thức hằng lưu tâm đến tiền đồ Phật giáo nước nhà.
Nay kính,
Nha Trang, Thu
Canh Tuất P.L. 2514 (1970)
Giám viện
Trung phần
Hòa Thượng
Thích Trí Thủ
------o0o------
Lời
nói đầu
Kinh này theo bản văn Pali lấy nhan đề là:
Milindapanhà.
Millinda là tên một vị vua người gốc Hy Lạp [1], trị vì từ năm 163
đến năm 150 trước Tây lịch, trên một lãnh thổ rộng lớn, chiều đông tây chạy dài
từ phía tây lưu vực sông Hằng đến miền Ðông nước Ba tư ngày nay, chiều nam bắc
chạy từ cửa sông Ấn lên tới chân núi Hy mã lạp, hoặc xa hơn nữa, trong vùng A
Phú Hãn ngày nay. Thủ đô đóng tại Sàkalà (cũng viết là Ságala), trên vùng
thượng lưu Ngũ hà. Nhà vua là bậc văn võ toàn tài, kết tinh của hai giòng máu,
cha người Hy, mẹ người Trung Á, sinh tại vùng Kabal. Ông xuất thân là một bộ
tướng của Démétrios, vua nước Ðại Hạ (Bactriane), được vua nầy gã con gái cho
là công chúa Agathocleia. Trên đường chinh phục nước Ấn Ðộ, Démétrios cùng với
Millinda từng kéo quân đến vây hãm thành Hoa Thị (Patalipatra). Ðương vây thành
nầy thì được tin tại thủ đô nước Ðại Hạ có chính biến do Eucratidès cầm đầu.
Vua Démétrios cho Milinda về đóng gữi vùng Ngũ Hà, còn mình thì trực chỉ Ðại Hạ
để dẹp nội loạn, nhưng khi đến gần thủ đô thì bị Eucratidè phục kích giết chết.
Bấy giờ là năm 167 trước Tây lịch, từ đó, vương quốc Ðại Hạ tách ra làm hai:
vương quốc miền Tây do Eucratidè cai trị, và vuơng quốc miền Ðông do Apollodots
I (em ruột Démétrios) cai trị. Ðến năm 163 trước Tây lịch, Apollodotes I bị
Eucratidè tiến đánh và giết chết luôn, Milinda lên kế vị và dời đô từ Taxila về
Sàkala. Trong 13 năm trị vì, ông mở mang bờ cõi đất nước mỗi ngày một rộng
thêm. Cuộc đối thoại về giáo pháp giữa nhà vua và Ðại đức Na Tiên (Nagasena)
xảy ra tại thủ đô Sàkala trong khoảng thời gian từ năm 163 đến năm 150 trước
Tây lịch.
Về danh xưng Milinda, có nhiều cách ghi
khác nhau: trên các đồng tiền vàng do triều đại này đúc thì thấy ghi là
Menendra, trên bí ký thì là Minapra, trong kinh Tàranàtha thì ghi là Minara,
bản Pháp văn ghi là Ménandre, bản dịch Hán văn phiên âm là Di Lan Ðà.
Panhà nghĩa là "hỏi",
Milindapanhà như vậy có nghĩa là "Di Lan Ðà hỏi". Nếu dịch ra chữ Hán
thì có lẽ nên dịch là "Di Lan Ðà vấn kinh".
Nội dung kinh nầy, Hán văn có cả thảy 3
bản dịch do các dịch kinh Trung Hoa phiên dịch vào thế kỷ III, IV, và V. Bản
hiện lưu hành là bản thứ nhì, dịch trong khoảng từ năm 317 đến năm 420, lấy
nhan đề là "Na Tiên Tỳ Kheo Kinh". Nguyên bản của bản này do Hữu bộ
kiết tập và viết bằng văn tự Pràkrit.
So sánh hai bản "Na Tiên Tỳ Kheo
Kinh" và "Milindapanhà" người ta thấy rằng bản thứ nhất tương
đồng với phần đầu của bản thứ hai. Trong số 7 quyển của bản nầy (Milindapanhà),
chỉ một phần của quyển I, trọn quyển II, và quyển III, nội dung không khác gì
Na Tiên Tỳ Kheo Kinh. Bốn quyển còn lại, từ quyển IV đến quyển VII, là do Phật
giáo Tích Lan thêm dần vào từ thế kỷ thứ V, cho hợp với lập trường giáo nghĩa
của Thượng tọa bộ Tích Lan (Theravada) [2].
Gác ngoài những phần thêm thắt, nội dung
nguyên thủy chia hai phẩn: phần mở đầu và phần đối thoại chính. Phần mở đầu gồm
một đoạn văn tả cảnh kinh thành Sákala (Xá Kiệt) chỗ vua Di Lan Ðà đóng đô, sự
tích của vua Di Lan Ðà và những nỗi bâng khuâng bất mãn của ông trên con đường
tầm đạo vấn chân, sự tích sơ lược về Tỳ kheo Na Tiên, và cuối cùng là sự đối
diện giữa hai người.
Phần đối thoại đề cập đến hầu hết các vấn
đề từng được Giáo pháp Nguyên Thủy giảng dạy như: vô ngã, luân hồi, tái sanh
của danh sắc trạng thái của La Hán, bản thể của Niết Bàn, sự xuất thế của Phật,
tánh cách vô thượng của Phật v.v. Trong cuộc đối thoại nầy, vấn đề hấp dẫn nhà
vua nhất là sự lợi ích của đời sống tu hành mà từ trước chưa được ai giải đáp
thỏa mãn. Câu giải đáp của Na Tiên là: người xuất gia chắc chắn đạt được thánh thiện,
và đạt được mau chóng hơn kẻ tại gia.
Tuy nội dung phần đối thoại không có gì
mới so với giáo nghĩa Nguyên Thủy, nhưng cách trình bày thật là sắc sảo, mạnh
mẽ, sáng sủa, tinh vi và nhất là sống động, luôn luôn kèm theo nhiều thí dụ rất
sát ý, khiến người đọc thấy tâm hồn mình phấn khởi một cách phơi phới. Ðặc điểm
độc đáo là chính ở đấy.
Và chính vì đặc điểm độc đáo ấy mà
Milindapanhà được Giáo Hội Phật Giáo Tích Lan tôn thờ gần ngang hàng với thánh
điển Ngũ bộ Kinh; Phật giáo Miến Ðiện thì xếp Milindapanhà vào thánh điển hẳn.
Vào thế kỷ thứ V, luận chủ số một của Nam Tông là ngài Phật Âm (Buddhaghosa)
thường trích dẫn kinh nầy để dùng làm luận cứ chứng minh cho các tác phẩm của
ngài, và trên lục địa Ấn độ, một đại luận chủ khác là ngài Thế Thân (Vasubandhu)
cũng nhắc đến kinh Milindaphanhà trong khi soạn bộ luận trứ danh của ngài là bộ
A tỳ đạt ma Câu xá luận (Abhidharmakosa).
Như trên, ta đã thấy giá trị và uy tín của
Milindapanhà đối với Phật giáo đồ như thế nào, và địa vị của Milindapanhà trong
rừng Thánh điển Phật giáo cao cả trang trọng ra sao.
Theo bản văn Pali của Tích Lan thì soạn
giả là đại đức Pitakaculàbhaya, người Trung Ấn. Theo bản Hán dịch hiện lưu hành
trong Bắc Phương Phật giáo thì soạn giả là Bồ tát Long thọ, vị luận sư số một
của Ðại thừa Phật giáo thường được tôn xưng là Ðệ Nhị Thích Ca.
Có lẽ cả hai thuyết đều đúng. Và đúng hơn
nữa là soạn giả không chỉ có hai, mà còn nhiều vị khác nữa. Bằng chứng là
phương Bắc có 3 bản Hán dịch dựa vào 3 nguyên bản khác nhau.
Theo sử liệu chắc thật thì vua Di Lan Ðà
trị vì từ năm 163 đến năm 150 trước Tây lịch. Bấy giờ, nhà vua chỉ hỏi miệng,
và ngài Na Tiên khi đáp, cũng chỉ đáp miệng. Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú
dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian.
Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày, từ miệng này
sang miệng khác có sai lệch đi chăng, cho nên bấy giờ các Thánh Tăng mới bắt
đầu kiết tập thành sách. Hiện tượng giống như việc kết tập "Những lời Phật
dạy" thành Thánh điển A Hàm hay Thánh Ðiển Ngũ Bộ Kinh. Vì có nhiều người
trước soạn trong nhiều thứ tiếng khác nhau, do đó mà tuy nội dung vẫn chỉ một,
nhưng cách bố cục và cách hành văn có xê xích bất đồng.
Một điều khác cần sự lưu ý là trong phần
mở đầu có đoạn ám chỉ rằng Phật giáo bấy giờ đang bị tai biến (Mi Tiên vấn đáp
trang 29) . Vậy tai biến đó là gì? Ta nên biết rằng khi Di Lan Ðà lên ngôi
(163) thì triều đại Khổng Tước của A Dục đã sụp đổ năm 187 tức trước đó 24 năm.
Bấy giờ ở lưu vực sông Hằng, triều đại kế tiếp thuộc dòng họ Sanga của võ tướng
Pusyamitra, một quyền thần của tiền triều lên chiếm. Triều đại nầy rất có ác
cảm với Phật giáo và tập trung hết nỗ lực vào việc chấn hưng Bà la môn giáo.
Vua Di Lan Ðà người gốc Hy, vào làm vua ở Tây bắc Ấn Ðộ và quy y theo Phật
giáo, ngoài lý do tín ngưỡng, chắc hẳn thế nào cũng còn có lý do chính trị nhằm
mục đích thu phục nhân tâm mà đa số là tín đồ Phật giáo chống lại Pusyamitra.
Cái tai biến của Phật giáo lúc bấy giờ chính là cái tai biến do Pusyamitra gây
ra vậy. Do đó, sự xuất hiện của Na Tiên và cuộc đối thoại về đạo lý với vua Di
Lan Ðà lại càng dễ được người đời truyền tụng và nhớ dai, cho nên ai sức nào
ghi lại sức ấy. Ðây là lý do thứ hai khiến có nhiều bản kinh Na Tiên khác nhau.
Cuối cùng, đứng về mặt giáo nghĩa, đọc
kinh Na Tiên, ta thấy rõ tư tưởng của ngài mặc dù là tuyệt đối trung thành với
giáo pháp nguyên thủy, nhưng có nhiều khía cạnh đã manh nha những điểm tế nhị
ảo diệu của tư tưởng đại thừa. Có lẽ chính vì đặc điểm này mà ngài Long Thọ
(xuất hiện hơn 2 thế kỷ sau) cũng trước soạn lại kinh Na Tiên để mở màn cho
giáo lý trung quán xuất hiện. Xét ở khía cạnh này, rõ ràng tư tưởng Na Tiên là
tư tưởng chuyển tiếp giữa Tiểu thừa và Ðại thừa. Như vậy địa vị quan trọng của
Kinh Na Tiên lại cũng được chứng minh ở đặc điểm này nữa.
Về tiểu sử của Ðại đức Na Tiên, tài liệu
hiện lưu truyền nói rất mơ hồ, lắm khi còn mâu thuẫn nhau nữa.
Phần I của Na Tiên Tỳ Kheo Kinh (tương
đương với quyển I kinh Milindapanhà) có cung cấp cho ta một ít tia sáng. Nhưng
các chi tiết của tiểu sử ấy quá sơ sài và lờ mờ khiến các sử gia Phật giáo bâng
khuâng tự hỏi nhân vật Na Tiên có quả thật là nhân vật lịch sử không?
Có người từng khẳng định rằng đồng đời với
vua Di Lan Ðà (Milinda) không thấy có ghi vị tỳ kheo đắc đạo nào tên là Na Tiên
(Nagasena) cả. Họ ức đoán rằng có lẽ Bồ tát Long Thọ (Nagarjuna), vị thánh tăng
xuất hiện sau hơn hai thế kỷ, vì muốn soạn một quyển kinh bằng thể vấn đáp để
dễ truyền bá Phật pháp nên nhân có vua Di Lan Ðà là người gốc Hy quy y theo
Phật giáo và cai trị vùng Tây bắc Ấn Ðộ bao trùm cả lãnh thỗ Ba Tư và A Phú Hãn
trong thế kỷ II trước Tây lịch, Bồ tát bèn sáng chế ra tên Nagasna mà cách phát
âm lơ lớ giống tên Nagarjana để gửi gấm những ý kiến của riêng mình. Giả thuyết
này từng được soạn giả Ðoàn Trung Còn ghi lại trong bài tựa của Na Tiên Tỳ Kheo
Kinh do ông phiên dịch.
Theo tài liệu về Phật học sử do các sử gia
đứng đắn kê cứu thì Bồ tát Long Thọ, xuất hiện vào đầu hoặc giữa thế kỷ II sau
Tây lịch mà kinh Milindapanhà bằng tiếng Pali thì đã từng được lưu hành trong
khoảng thế kỷ đầu của Tây lịch. Như vậy, giả thuyết trên khó có thể đứng vững
được. Phương chi, truyền thống Nam Tông theo văn hệ Pali ít có thiện cãm với tư
tưởng Long Thọ, và những gì bắt gốc từ Long Thọ đều bị truyền thống ấy gạt ra ngoài,
không bao giờ nhắc nhở đến. Như thế nếu Na Tiên Tỳ Kheo Kinh thật là sáng tác
của Long Thọ thì e rằng Nam Tông không chịu kết tập lại, như họ đã từng không
chịu chấp nhận các tác phẩm lừng danh trong học giới của vị Bồ tát "Ðệ Nhị
Thích Ca" nầy là Trung Quán, Thập Nhị Môn Quán v.v.
Do đó mà suy, ta chỉ có thể chấp giả
thuyết đã được trình bày ở đoạn đầu Lời Nói Ðầu này, với một Na Tiên có thật.
Tiểu sử của ngài, căn cứ vào phần một của
Na Tiên Tỳ Kheo Kinh, hoặc quyển I của Milindapanhà, đại khái như sau:
Ngài sanh tại làng Casangala (Kajangala),
dưới chân núi Hy Mã Lạp, ở vùng Tây bắc Ấn Ðộ, trong một gia đình Bà La Môn mà
thân phụ tên là Sonattara. Theo bản Hán dịch thì làng nầy thuộc nước Kế Tân
(Kashmir). Ngài xuất gia thọ giáo với La hán Lâu Hán (Rohana), từng được bổn sư
cho tháp tùng để học đạo và du hóa tại các chùa trên núi Hy Mã Lạp. Tiếp theo
ngài được gửi đến thọ giáo với La hán Át Bá Nhựt (Assagutta) tại chùa Hộ Tân
(Vattaniya). Trong thời gian thọ giáo với La hán Át Bá Nhựt, nhân một thời pháp
nói cho một lão tín nữ nghe, cã ngài và lão tín nữ bổng nhiên được pháp quả
"nhãn tịnh", và cả hai cùng chứng đắc sơ quả "Dự lưu" mà
siêu phàm nhập thánh. Sau đó, Ngài được La hán Át Bá Nhựt cho đông du, đến thọ
giáo với La hán Ðạt Ma Ra Khi Ta (Dhammarakhita) tại chùa A Dục (Asokàrama) ở
thành Hoa Thị (Pataliputra). Ngài thông suốt Tam Tạng Thánh Giáo và chứng quả A
La Hán tại đây. Từ đó, tiếng tăm lừng lẫy, ngài đi giáo hóa khắp đó đây. Cuối
cùng, ngài dừng chân tại chùa San Khế Da (Sankkheyà) ở thủ đô Xá Kiệt (Sagala)
trong vùng thượng lưu Ngũ Hà (Punjab) . Tại đây, Ngài gặp vua Di Lan Ðà, trước
đó đã quy y với trưởng lão Dã Hòa La (Ayupàla) mà nhà vua đã nhiều lần đến hỏi
đạo và không mấy được thỏa mãn. Sự tương ngộ giữa Di Lan Ðà và ngài là đầu mối
của Kinh Milindapanhà hay Na Tiên Tỳ Kheo Kinh nầy mà nội dung sẽ được trình
bày lại trong mục đối thoại sau đây.
Nha Trang, ngày 7 tháng 5, 1970
Soạn giả
Cao Hữu Ðính
Ghi chú:
[1] Ðây là dựa theo giả thuyết được nhiều học giả công nhận
rằng Milinda có lẽ là tên của vua Menander của giống dân Hy Lạp miền Bactria.
[2] Hòa thượng Giới Nghiêm Thitasìlo, chùa Phật Bảo, Ðà
Nẳng, đã dịch sang Việt ngữ bộ kinh Pali Milindapanhà, với tựa đề "Mi Tiên
Vấn Ðáp": quyển 1 năm 1963, quyển 2 năm 1973, và quyển 3 năm 1981. Bộ nầy
đã được Thích Ca Thiền Viện, California, Hoa Kỳ, tái bản năm 1998.
Chân thành cám ơn Nhóm chủ trương Nguyệt san Phật Học,
Kentucky, Hoa Kỳ, đã có thiện tâm gửi tặng bản điện tử bộ kinh Na Tiên Tỳ Kheo
nầy - (Bình Anson, 08-1999)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét