KINH HIỀN NHÂN
I. Lời nói đầu:
Tôi được đọc cuốn Hiền Nhân
này trong một buổi chiều mưa gió, gió mưa rầu rĩ nhắc tôi nhớ lại thời xưa, bao
cảnh tượng xa xăm, dồn dập thi nhau kéo về gây cho trí óc tôi một cảm giác mênh
mang, bao la không bờ bến.
Vâng, thời xưa, thời của chánh pháp huy hoàng còn bao giờ mới trở lại với nhân gian chất chứa đau thương, có trở lại chăng cũng chỉ là những viễn ảnh mờ xa, hiện lại ở trí óc mỗi người trong hiện cảnh, ngược dòng ký giảng bạn thấy rõ ràng sự đau khổ hiện tại còn ghê rợn gấp mấy mươi lần nỗi đau khổ mà người xưa đã gặp trên bốn cửa thành Ca-Tỳ-La-Vệ, đau thương không còn như ngày xưa nữa, đây là một nỗi đau thương vô phương cứu chữa. Lạy Ngài, con đường lầm lạc dẫn chúng con đi xa mất rồi, giáo lý cao siêu ngày nay đã phai mờ, hơn nữa đã bị phủ lên một lớp áo màu tím ngược. Xa xa, còn vọng lại tiếng một đoàn quân nào reo hò chiến thắng, đâu đây còn phảng phất tiếng cười khoái trá của nhàn khoa học, và kia cặp mắt đăm chiêu của nhà triết lý, gần hơn nữa một nếp ngăn tin tưởng trên trán một tín đồ thuần thành, những âm thanh và hình ảnh ấy sao không đem lại cho ta một tia nắng tin tưởng, và nào là chân lý là tình thương là lý trí đang còn, là bao nhiêu danh từ kêu và rỗng, trong khi còn mơ màng mình vũ trụ hãy quay lại đạo đức đông phương, bạn sẽ thấy một vẻ gì quen thuộc, tôi muốn trở về với một quá khứ êm dịu hơn, còn thiếu ở nhân gian một sự nhận thức rõ ràng về định hướng, hãy đến phân tích tâm trạng của mọi con đường, bạn sẽ thấy đâu cũng là đúng hướng, duy phần riêng chỉ thấy con đường mình là đúng và của mọi người đều sai và lạc lối cả. Còn thiếu ở nhân gian một sự sửa chữa, một sự sửa chữa thôi, sửa chữa vẫn là tiếng oán, những vết tỳ rất nhỏ trong tâm hồn, một cử chỉ vụng về trong xử thế, một tâm niệm vị kỷ nhỏ nhen, đủ kết tập và bùng lên một ngọn lửa thiêu trọn địa cầu và cả một dục giới ô nhiễm, đạo Phật đó, một triết lý u huyền, một khoa học thực nghiệm, một đạo đức tuyệt vời, tư tưởng luân lý đông tây dễ gì so sánh, những cuốn sách chữ nho rách nát nhưng bao nhiêu cái mới hiện thời đều ở cả trong ấy, mình không muốn vong bản, mình không muốn chạy theo bóng hình giả dối thì mình níu lấy cội gốc vậy. Một bà già ngồi niệm Phật đó, bạn thấy ở đây những gì thâm thuý, nhưng đó là tất cả ý nghĩ của cuộc đời. Hôm nay để tâm hồn lắng xuống một chiều mưa gió, tôi đọc cuốn Hiền Nhân với một tâm niệm trong sáng, đầy tin tưởng, có gì đâu, những lời giản dị nhưng đầy vẻ hiểu đời và chứng tỏ hạnh phúc chỉ có khi nào tâm niệm được an lành và thanh thoát. Nhân loại đã bỏ lưu sau bước chân những hạt vàng quý giá, và mắt thì còn trông ngóng những bào ảnh đâu xa, cũng như bao nhiêu lời giảng dạy cho tín đồ cư sĩ. Cuốn Hiền Nhân này là một cuốn Kinh luân lý và đạo đức Phật dạy cho kẻ bạch y, như tôi đã nói, luân lý nhà Phật bao trùm cả luân lý Đông – Tây, các bạn có để tâm mới thấy rõ, thâm thuý mà giản dị biết bao, những lời dạy quý hoá như đoạn này trong Kinh Hiền Nhân: “Kết bạn có bốn thứ: Một là kết bạn như Hoa; Hai là kết bạn như Cân; Ba là kết bạn như Núi; Bốn là kết bạn như Đất. Sao gọi là kết bạn như Hoa, khi bông hoa còn tươi tốt thì dắt trên đầu, khô héo rồi, bỏ đi. Kết bạn cũng thế. Hễ thấy giàu sang thì su phụ theo, thấy nghèo nàn thì bỏ làm lơ. Sao gọi là kết bạn như Cân: Khi để vật nặng thì đầu gục xuống, vật nhẹ thì đầu võng lên. Có qua lại thì cung kính nhau, không qua lại thì khinh rẻ nhau. Sao gọi là kết bạn như Núi – Hòn núi vàng loài chim thú tựu về lông cánh còn được chói màu vàng rực. Kết bạn cũng thế. Khi sang thì sang với nhau. Khi vui, đồng vui. Sao gọi là kết bạn như Đất - Tất cả mọi vật đều nương dựa đất mà sinh, làm bạn để nuôi dưỡng ủng hộ, ân hậu không bạc”. Rồi trong những lời dạy quý hoá về luân lý, ẩn tất cả những triết lý sâu kín của cuộc đời, tìm ở đâu những gì mới lạ, chúng ta chỉ mất công, nhưng giáo lý cốt hợp cơ và Phật pháp là bất định pháp. Giáo pháp phải hợp thời hợp xứ và hợp căn trí, vì thế đừng nên vội nghi ngờ lời nào của Đức Phật. Đành rằng Ngài dạy: “Đệ tử chớ tin lời ta, khi nào đệ tử chưa hiểu!”. Nhưng bạn hãy đọc lại những gì mà bạn chưa hiểu ấy, chớ vội không tin, nhiều khi đó là phương tiện để hạp thời, hạp xứ. Thấy con ếch nói được trong Kinh bạn sẽ mỉn cười, cũng như khi bạn nghe Quả địa cầu rung động và thiên nhạc văng vẳng khi Phật xuất thế, bạn sẽ bảo đó là đặt điều, có thật đấy bạn à. Những hình ảnh thần bí chỉ là để tượng trưng cho những ý tưởng triết lý, quả địa cầu rung động và thiên nhạc văng vẳng là gì, nếu không phải là sự miêu tả cực kỳ khéo léo sự vui mừng thật sự của vũ trụ Nhân thiên. Con ếch than khóc là gì, nếu không phải là tượng trưng cho sự đau khổ tuyệt lực lan từ nhân loại cho đến cầm thú. Cuốn Triết Nhân do Ông Ngô Nguyệt Chi dịch từ Phạn văn ra Hán văn. Với một lối văn màu sắc cổ điển và thuần tuý. Nguyên nhan đề là Kinh Ông Bụt. Nay, Tỳ kheo Thích Hành Trụ dịch ra tiếng Việt ngữ đổi lại là Kinh Hiền Nhân. Hiền Nhân hay Ông Bụt cũng thế, là tiền thân của Phật Thích Ca, chính Ngài thuật lại. Nếu các bạn chưa được nếm kho tàng Phật lý ban đầu, hãy xem những quyển kinh giản lược như cuốn này vậy. Kho tàng Phật giáo còn nguyên cả khố, bằng Hán văn chưa ai dịch được bao nhiêu, vẫn còn đợi một sự cố gắng lâu dài.
Vâng, thời xưa, thời của chánh pháp huy hoàng còn bao giờ mới trở lại với nhân gian chất chứa đau thương, có trở lại chăng cũng chỉ là những viễn ảnh mờ xa, hiện lại ở trí óc mỗi người trong hiện cảnh, ngược dòng ký giảng bạn thấy rõ ràng sự đau khổ hiện tại còn ghê rợn gấp mấy mươi lần nỗi đau khổ mà người xưa đã gặp trên bốn cửa thành Ca-Tỳ-La-Vệ, đau thương không còn như ngày xưa nữa, đây là một nỗi đau thương vô phương cứu chữa. Lạy Ngài, con đường lầm lạc dẫn chúng con đi xa mất rồi, giáo lý cao siêu ngày nay đã phai mờ, hơn nữa đã bị phủ lên một lớp áo màu tím ngược. Xa xa, còn vọng lại tiếng một đoàn quân nào reo hò chiến thắng, đâu đây còn phảng phất tiếng cười khoái trá của nhàn khoa học, và kia cặp mắt đăm chiêu của nhà triết lý, gần hơn nữa một nếp ngăn tin tưởng trên trán một tín đồ thuần thành, những âm thanh và hình ảnh ấy sao không đem lại cho ta một tia nắng tin tưởng, và nào là chân lý là tình thương là lý trí đang còn, là bao nhiêu danh từ kêu và rỗng, trong khi còn mơ màng mình vũ trụ hãy quay lại đạo đức đông phương, bạn sẽ thấy một vẻ gì quen thuộc, tôi muốn trở về với một quá khứ êm dịu hơn, còn thiếu ở nhân gian một sự nhận thức rõ ràng về định hướng, hãy đến phân tích tâm trạng của mọi con đường, bạn sẽ thấy đâu cũng là đúng hướng, duy phần riêng chỉ thấy con đường mình là đúng và của mọi người đều sai và lạc lối cả. Còn thiếu ở nhân gian một sự sửa chữa, một sự sửa chữa thôi, sửa chữa vẫn là tiếng oán, những vết tỳ rất nhỏ trong tâm hồn, một cử chỉ vụng về trong xử thế, một tâm niệm vị kỷ nhỏ nhen, đủ kết tập và bùng lên một ngọn lửa thiêu trọn địa cầu và cả một dục giới ô nhiễm, đạo Phật đó, một triết lý u huyền, một khoa học thực nghiệm, một đạo đức tuyệt vời, tư tưởng luân lý đông tây dễ gì so sánh, những cuốn sách chữ nho rách nát nhưng bao nhiêu cái mới hiện thời đều ở cả trong ấy, mình không muốn vong bản, mình không muốn chạy theo bóng hình giả dối thì mình níu lấy cội gốc vậy. Một bà già ngồi niệm Phật đó, bạn thấy ở đây những gì thâm thuý, nhưng đó là tất cả ý nghĩ của cuộc đời. Hôm nay để tâm hồn lắng xuống một chiều mưa gió, tôi đọc cuốn Hiền Nhân với một tâm niệm trong sáng, đầy tin tưởng, có gì đâu, những lời giản dị nhưng đầy vẻ hiểu đời và chứng tỏ hạnh phúc chỉ có khi nào tâm niệm được an lành và thanh thoát. Nhân loại đã bỏ lưu sau bước chân những hạt vàng quý giá, và mắt thì còn trông ngóng những bào ảnh đâu xa, cũng như bao nhiêu lời giảng dạy cho tín đồ cư sĩ. Cuốn Hiền Nhân này là một cuốn Kinh luân lý và đạo đức Phật dạy cho kẻ bạch y, như tôi đã nói, luân lý nhà Phật bao trùm cả luân lý Đông – Tây, các bạn có để tâm mới thấy rõ, thâm thuý mà giản dị biết bao, những lời dạy quý hoá như đoạn này trong Kinh Hiền Nhân: “Kết bạn có bốn thứ: Một là kết bạn như Hoa; Hai là kết bạn như Cân; Ba là kết bạn như Núi; Bốn là kết bạn như Đất. Sao gọi là kết bạn như Hoa, khi bông hoa còn tươi tốt thì dắt trên đầu, khô héo rồi, bỏ đi. Kết bạn cũng thế. Hễ thấy giàu sang thì su phụ theo, thấy nghèo nàn thì bỏ làm lơ. Sao gọi là kết bạn như Cân: Khi để vật nặng thì đầu gục xuống, vật nhẹ thì đầu võng lên. Có qua lại thì cung kính nhau, không qua lại thì khinh rẻ nhau. Sao gọi là kết bạn như Núi – Hòn núi vàng loài chim thú tựu về lông cánh còn được chói màu vàng rực. Kết bạn cũng thế. Khi sang thì sang với nhau. Khi vui, đồng vui. Sao gọi là kết bạn như Đất - Tất cả mọi vật đều nương dựa đất mà sinh, làm bạn để nuôi dưỡng ủng hộ, ân hậu không bạc”. Rồi trong những lời dạy quý hoá về luân lý, ẩn tất cả những triết lý sâu kín của cuộc đời, tìm ở đâu những gì mới lạ, chúng ta chỉ mất công, nhưng giáo lý cốt hợp cơ và Phật pháp là bất định pháp. Giáo pháp phải hợp thời hợp xứ và hợp căn trí, vì thế đừng nên vội nghi ngờ lời nào của Đức Phật. Đành rằng Ngài dạy: “Đệ tử chớ tin lời ta, khi nào đệ tử chưa hiểu!”. Nhưng bạn hãy đọc lại những gì mà bạn chưa hiểu ấy, chớ vội không tin, nhiều khi đó là phương tiện để hạp thời, hạp xứ. Thấy con ếch nói được trong Kinh bạn sẽ mỉn cười, cũng như khi bạn nghe Quả địa cầu rung động và thiên nhạc văng vẳng khi Phật xuất thế, bạn sẽ bảo đó là đặt điều, có thật đấy bạn à. Những hình ảnh thần bí chỉ là để tượng trưng cho những ý tưởng triết lý, quả địa cầu rung động và thiên nhạc văng vẳng là gì, nếu không phải là sự miêu tả cực kỳ khéo léo sự vui mừng thật sự của vũ trụ Nhân thiên. Con ếch than khóc là gì, nếu không phải là tượng trưng cho sự đau khổ tuyệt lực lan từ nhân loại cho đến cầm thú. Cuốn Triết Nhân do Ông Ngô Nguyệt Chi dịch từ Phạn văn ra Hán văn. Với một lối văn màu sắc cổ điển và thuần tuý. Nguyên nhan đề là Kinh Ông Bụt. Nay, Tỳ kheo Thích Hành Trụ dịch ra tiếng Việt ngữ đổi lại là Kinh Hiền Nhân. Hiền Nhân hay Ông Bụt cũng thế, là tiền thân của Phật Thích Ca, chính Ngài thuật lại. Nếu các bạn chưa được nếm kho tàng Phật lý ban đầu, hãy xem những quyển kinh giản lược như cuốn này vậy. Kho tàng Phật giáo còn nguyên cả khố, bằng Hán văn chưa ai dịch được bao nhiêu, vẫn còn đợi một sự cố gắng lâu dài.
Tâm quán.
----o0o----
Kinh Hiền Nhân
Sau khi Phật nhập diệt, Ngài Ca Diếp triệu tập Đại hội kiết tập kinh điển. Ông A Nan lên pháp toà thuật lại những lời Phật, Kinh này do Phật nói và làm lời Ông A Nan thuật lại.
Tôi đã nghe,
hồi ấy Phật còn lưu trú tại nước Xá Vệ với 1,250 vị khất sĩ, cư sĩ Tu Đạt, ngày
ngày thân hành phụng sự Phật, Ông vâng lời Ngài giữ 5 giới: Không sát hại,
không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Vốn là một
người hiểu đạo đúng đắn, ông hay ưa bố thí, cứu giúp kẻ bần cùng khốn khổ, nên
người ta tặng cho ông tên Cấp Cô Độc, nghĩa là nuôi, giúp những kẻ cô đơn, khốn
cùng. Cư sĩ muốn lập một nhà Tịnh xá để Phật ở, ông đi tìm một khoảng đất để
cất Tịnh xá, nhưng tìm mãi chỉ thấy có khoảnh vườn của Thái tử họ Kỳ là hạp địa
thế hơn cả, khoảnh vườn ấy bằng phẳng, rộng có hơn 80 khoảng, cách thành không
xa mấy, trong vườn trồng nhiều cây có quả, đây đó đều có suối chảy, ao tắm rất
tiện lợi, sạch sẽ, không có kiến, bọ, muỗi, ruồi. Nhận thấy chỗ đất ấy có thể
lập tịnh xá. Cư sĩ Tu Đạt liền đến Thái tử Kỳ để mua lại, Thái tử mỉn cười đáp:
-
Nếu ông có thể đem vàng ròng lót cho đầy mãnh đất ấy không chừa khoảng
trống nào trong vườn thì với giá ấy tôi sẽ bán mãnh đất ấy cho ông.
Cư sĩ Tu Đạt
vui vẻ gật đầu:
-
Xin vâng, tôi sẽ trả theo giá Ngài đã định.
Thấy mình nói
chơi, người ta mua thật, Thái tử vội lắc đầu:
-
Tôi chỉ nói chơi thế thôi, chứ tôi không bán đâu.
Tu sĩ Tu Đạt không chịu, một
bên nói chơi, một bên mua thật, nên cải cọ lung tung và định đem vụ ấy lên toà,
có một lão thần thấy thế can gián Thái tử:
-
Điện hạ nói ra, phải giữ lấy lời, đừng nên trái hẹn.
Thái tử nghe lão thần nói
vậy cũng đành chịu bán, nhưng thấy cư sĩ Tu Đạt đứng ngẫm nghĩ hồi lâu, Thái tử
tưởng là ông không muốn mua nữa, liền nói:
-
Thôi, ông có chê đắt thì thôi.
Cư sĩ Tu Đạt cười:
-
Không, không phải tôi chê đắt, tôi đang nghĩ xem bây giờ nên lấy vàng ở
kho nào mà lát cho đủ mãnh vườn mà thôi.
Liền khi ấy, cư sĩ sai người
đem voi chở vàng trong kho của mình ra, và xúm xít lát, trong giây lát đã hơn
40 khoảng đất.
Thái tử họ Kỳ đứng nhìn ngẫm
nghĩ, chắc Đức Phật có đạo lý gì cao thâm lắm, nên mới khiến cho ông này trọng
đạo khinh tài đến thế, Thái tử liền bảo rằng:
-
Thôi đủ rồi, đừng chở vàng ra nữa, bây giờ thì thế này nhé, vườn đất
thuộc về ông, ông lập Tinh xá cúng Phật, còn tôi thì xin cúng cho Phật và giáo
hội tất cả những cây trái trong vườn.
Cư sĩ ưng thuận, hai người
đồng lòng cùng lập Tịnh Xá và đồng đi rước Phật dâng cả vườn nhà cây trái cho
Ngài.
Đức Phật nhận lời cùng 1,250
vị Sa môn đều tập trung trong ấy, nên từ ấy về sau, chỗ ấy gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô
Độc viên.
Lúc ấy Vua trong nước là Tỳ
Tiên Nặc với mọi người trong cung và tất cả nhân dân trong xứ ấy đều phụng sự
Phật, cúng dường y thực, gường chiếu, thuốc thang cho Ngài và các vị sa môn,
cung cấp tất cả những vật cần dùng. Thật là, khi chưa có Phật ra đời, bọn tà sư
ngoại đạo, thạnh hành và kiêu hãnh, cũng như khi mặt trời chưa lên thì đuốc đèn
khoe sáng, nhưng khi Phật đã xuất hiện với ánh sáng tuyệt diệu, ngoại đạo đều
khuất phục lặng yên, cũng như đuốc đèn kia mất hết cả ánh sáng khi mặt trời đã
lên, huy hoàng và rạng rỡ.
Trước kia trong nước có đến
500 tà sư ngoại đạo, nhưng bây giờ bọn ấy đều bị bỏ phế cả. Vì thế, một nhóm tà
đạo mới sinh lòng oán ghét, cùng nhau lập mưu huỷ nhục Phật để mọi người quây
lại cung kính và lễ bái mình. Trong bọn có nàng Tôn Đà Lỵ là đệ tử của chúng,
bảo rằng:
-
Các thầy không cần buồn rầu nữa, tôi đã có cách làm cho mọi người không
còn cung kính Phật nữa, và sẽ trở lại nhờ quý thầy như xưa. Bắt đầu từ ngày hôm
nay, ngày ngày tôi trang điểm và qua lại chỗ Phật và các vị sa môn ở. Sau một
tháng, các thấy cứ âm thầm giết tôi đi, và làm thế nào để chôn giấu trong vườn
Thái tử họ Kỳ, rồi các thầy giả cách tìm kiếm. Mọi người sẽ nói: “Tôi thường
thấy người con gái ấy thường xuyên qua lại Tịnh xá luôn”, liền đó các người đến
xin Vua cho người đi tìm, tiện dịp và moi xác tôi lên, vu oan cho chúng nó, các
thầy sẽ bảo cho mọi người nghe là: “Cái đạo gì mà dâm loạn, cái đạo gì mà không
giới hạnh chi cả”. Người trong nước nghe như vậy, quyết sẽ bỏ Phật, và trở về
phụng sự các thầy.
Bọn ngoại đạo nghe nàng nói
thế khen:
-
Hay lắm. Nàng cứ làm như thế đi.
Nàng Tôn Đà Lỵ liền làm theo
kế ấy. Nàng trang điểm cực kỳ mỹ lệ. Và mỗi ngày đều qua lại Tịnh xá viếng Phật
và Sa môn. Một tháng sau, bọn ngoài đạo thuê bốn người lén giết nàng và chôn
trong vườn Kỳ Thọ. Chôn xong, bọn đó đến cung Vua kêu lạy:
-
Tâu bệ hạ, chúng tôi có mất sống một người con gái, nàng thường hay qua
lại Tịnh xá viếng Phật và sa môn. Xin bệ hạ thương chúng tôi, cho quân đi tìm
thì chúng tôi được mang ơn bệ hạ lắm.
Vua Ty Tiên Nặc liền sắc cho
các quan bộ lại phải cùng bọn tà sư ngoại đạo đó đi tra xét, tìm nã cho ra. Bọn
tà sư giả cách đi lại bốn, năm vòng, rồi moi xác nàng Tôn Đà Lỵ lên, chúng vừa
khóc, vừa để xác ấy lên xe, chở đi khắp thành cho công chúng thấy, vừa đi, bọn
đó vừa kêu la khóc lóc cho mọi người nghe:
-
Cái phép của Sa môn là giữ giới hạnh cho trong sạch mới phải, chớ sao
các ông lại hãm hiếp đàn bà, rồi lại sợ tiết lộ mà đem chôn đi. Trời ơi, có cái
đạo nào mà lạ lùng như thế.
Nhân dân nghe vậy, nhiều
người tin ngay là thật, chỉ có các bậc đắc đạo mới biết đó là gian dối. Lúc ấy,
Phật dạy các thầy Sa môn:
-
Các ngươi đừng vào thành, để bảy ngày nữa sự thực hư thế nào sẽ rõ
ràng.
Đến hôm thứ tám, Phật sai ông A Nan vào trong xóm
truyền rằng:
-
Kẻ nói dối chê người sẽ bị quả báo, kẻ vu oan cho người trong sạch chết
sẽ đoạ địa ngục, chịu khổ mãi mãi, khi ấy mới trách mình ngu si bạo ngược.
Mọi người nghe vậy, bảo nhau:
-
Chắc các vị Sa môn trong sạch, nên Phật mới nói như vậy đó.
Vua cũng phong phanh tin ấy,
nên cho người đi dò xét. Thám tử bắt được quả tang bọn ngoại đạo đang ăn mừng
được thành công, đang ban thưởng cho bốn người hung phạm. Theo lệ, người nào
học được nhiều kinh thì được chia nhiều phần thưởng. Trong bốn người, có một
người dốt được phần ít hơn cả, liền nổi giận mà nói:
-
Tôi sẽ phản cho các anh xem, đã chung nhau giết người vu oan cho Phật,
lại chia cho tôi phần quá ít.
Thám tử của nhà Vua đứng
ngoài nghe được, liền vào bắt người ấy, giải lên Vua. Nhà Vua phán hỏi, thì
người ấy cứ thật mà khai tất cả. Sau khi rõ âm mưu của ngoại đạo, Vua với quần
thần liền đi đến ra mắt Đức Phật.
Lúc bấy giờ, cư sĩ Cấp Cô
Độc cùng các vị thành tín và nhân dân trong nước đều đến hầu Phật, làm lễ xong,
mỗi người đều ngồi qua một bên. Nhà Vua đứng dậy, chấp tay thưa:
-
Bạch Thế Tôn, khi nghe lời vu oan của ngoại đạo ai cũng lấy làm ngạc
nhiên cả. Thật chỉ có Phật là bậc chơn thật hoàn toàn, thanh tịnh không lường,
bạch Ngài, xong chẳng hay vì nhân duyên gì mà xảy ra việc không hay như thế?
Phật bảo Vua Ty Tiên Nặc:
-
Này đại vương, sự vu khống ấy đều do lòng tham lam tật đố mà ra cả.
Xong việc ấy đã xảy ra lâu đời rồi, chứ chẳng phải mới đây mà thôi.
Vua cúi đầu:
-
Bạch Ngài, chúng con muốn nghe việc hồi đời ấy.
Phật dạy:
-
Này Đại vương, ta đã từng trãi qua bao nhiêu kiếp tu hành nhiều vô số,
vì đạo Bồ Tát đem lòng từ bi độ thoát cho mọi loài. Thời xưa, có một nước tên Bồ
Lân Nại, nhân dân đông đúc, sự sinh hoạt thật là phồn thịnh. Trong nước có một
người phạm chí, tên là Cù Đàm, tài trí thông minh bậc nhất. Ông có ba người
con, mà đứa con út có một thân hình đoan chính, đẹp đẽ không ai bằng. Ông rất
yêu chuộng nó, vì thế, lập một đại hội, mời các đạo sĩ và các thân thích trong
ngoài đến dự và ẫm đứa nhỏ ra cho mọi người xem.
Một đạo nhân nhìn đứa bé gật đầu:
-
Đứa bé này rất mến đạo, có tướng thánh nhân, sau này sẽ làm chức quốc
sư.
Nhân đó, người ta đặt tên
đứa bé là Hiền Nhân. Hiền Nhân thuở nhỏ rất chăm chỉ học hành, lớn lên tài nghệ
hơn người, làu thông được các kinh sử và biết được 96 món đạo thuật. Hiền Nhân
lại rõ được việc tai nạn, hoạ phúc, bào chế thuốc men, không gì không biết,
tánh từ bi. Hiền Nhân lại diệt được cả dâm tâm, tài nghệ đầy đủ. Hiền Nhân hàng
phục được cả loài cổ độc.
Nhưng sau khi ông Cồ Đàm qua
đời, thì hai người anh ganh ghét, xin mẹ chia gia tài, họ bảo:
-
Hiền Nhân thuở bé ham học, tiêu phí đối với thầy rất nhiều, bây giờ
phải chia cho Hiền Nhân phần ít.
Bà mẹ thương Hiền Nhân quá
hằng khuyên nhủ hai người con lớn, nhưng họ không nghe. Hiền Nhân thấy ý hai
anh quyết chắc, nghĩ rằng:
-
Người đời đều do lòng tham mà phải chịu bao nhiêu khổ sở ép bức, nếu ta
không đi thì bao giờ hai anh ta mới hết khổ.
Bèn xin mẹ đi học đạo, bà
bằng lòng. Hiền Nhân đi ròng rã tìm được bậc minh sư, xin làm sa môn vào núi tu
hành, chẳng bao lâu Hiền Nhân tự ngộ được tâm
ý: Một - Thương xót chúng sanh
như mẹ thương con; Hai - Muốn độ thoát
cho thế gian khốn khó; Ba - Dứt trừ
được tâm niệm ngu si; Bốn - Gặp vui
không mừng mà gặp khổ cũng không lo ngại; Năm
- Hiểu được ý đạo, tâm thường vui vẻ; Sáu
- Giữ gìn không phạm một lỗi nào; Bảy
- Dứt trừ được tham, dâm; Tám - Dứt
trừ được sự giận dữ.
Người loại trừ được năm món
dục lạc, mắt không còn tham đắm hình sắc trần gian, tai không còn tham đắm âm
thanh vi diệu, mũi không nhiễm mùi hương ngây ngất, lưỡi không ưa thích vị ngon
và thân không còn ưa lụa là và cảm giác êm dịu.
Hiền Nhân hay dùng trí huệ
phương tiện tuỳ thuận giáo hoá thiên hạ, khuyên người làm mười điều lành, thảo
thuận cha mẹ, dâng thờ sư trưởng, những ai lòng nghi hoặc Hiền Nhân đều giáo
hoá cho tư tưởng đạo đức. Người dạy cho họ rằng:
-
Có sanh ắc có tử, làm lành gặp lành, làm dữ mắc hoạ, tu đạo đắc đạo là
lẽ dĩ nhiên.
Thấy người nào bị nguy ách,
Hiền Nhân độ cho thoát khỏi, ai bị bịnh tật thì được giúp thuốc thang. Ai nghe
lời Hiền Nhân dạy, chết sanh lên cõi trời. Ở đâu có nạn nước lụt, cháy nhà, nắng
hạn nguy hiểm, nếu có Hiền Nhân đến đều được bình an, bao nhiêu độc hại đều bị
tiêu diệt.
---o0o---
Khi bấy giờ có một nước lớn,
nhân dân giàu có đông đúc yên vui. Vua nước ấy tên Lâm Đà thường giao trách
nhiệm triều chính cho bốn ông quan cận thần, nhưng bốn ông quan cận thần ấy
chuyên làm những việc tà xiểm, dâm ô, gian dối và bóc lột đủ điều. Dân chúng
thiệt hại, ta thán mà Vua không hề hay biết. Hiền Nhân thấy thế lấy làm thương
xót, Người cầm bát đến ngoài thành ở trọ lại nhà của đạo nhân Sa Đà bảy ngày,
qua ngày thứ tám, Hiền Nhân mới vào thành khất thực, khi đó nhà Vua đứng trên
thành trông thấy Hiền Nhân tuổi còn trẻ mà đã có cái phong vị đoan chánh ung
dung, dáng đi có vẻ phi thường liền sanh lòng kính mến. Ngài liền bước xuống và
chạy ra thưa hỏi, Vua phán:
-
Xin đạo nhân lưu trú tại đây. Tôi có Tịnh xá ngoài thành, đạo nhân nên
ở lại trong ấy. Tôi sẽ xin cung cấp những thứ cần dùng.
Hiền Nhân đáp:
-
Xin vâng lời Ngài.
Thấy Hiền Nhân nhận lời, Vua
sung sướng:
-
Ý tôi muốn thỉnh Ngài mỗi buổi sớm mai đến cung thọ thực.
Hiền Nhân nhận lời. Vua từ
giả về cung, bảo Hoàng Hậu:
-
Vị đạo sĩ ấy không phải là người thường. Sáng ngày, Khanh nên đến ra
mắt Ngài.
Hoàng Hậu lấy làm vui vẻ và
con chó của Vua tên Tân Kỳ nằm dưới gầm gường cũng mừng rỡ ngoắc đuôi. Sáng hôm
sau, Hiền Nhân vào cung, nhà Vua và Hoàng Hậu ra nghênh tiếp, làm lễ dâng cúng
cho Ngài gường gấm, chiếu bông, khảm nĩ. Hiền Nhân vừa ngồi xuống thì con chó
Tân kỳ liền chạy đến liếm chân mừng rỡ. Vua thân hành múc nước rửa chân cho
Hiền Nhân và hết lòng thành kính dâng đồ ăn uống. Thọ thực xong, Vua mời Người
ra Tịnh xá. Hiền Nhân tiện dịp nói cho Vua hiểu phép tắc trị nước an dân. Nhà
vua vui mừng quá, nhân đó thỉnh Người phụ lực cùng bốn vị đại thần chung lo
việc nước. Hiền Nhân nhận lời.
Bốn ông quan cận thần vốn là
ngu tối, khiếp nhược, không chịu tập chiến trận, chỉ biết tham ô, bót lột dân
chúng. Một ông thường nói:
-
Sau khi người chết, hồn thần sẽ diệt mất không sinh trở lại nữa.
Ông thứ hai chủ trương:
-
Nghèo, giàu, vui, khổ, cũng đều do trời định.
Một ông lại nói:
-
Làm lành không được phúc, cũng như làm ác không có tai hoạ gì.
Ông thứ tư lại ỷ mình biết
xem tinh tú. Không ông nào biết xem việc triều chính, ông nào cũng tham lam xiểm
nịnh. Còn Hiền Nhân từ khi giúp nước làm nhiều điều lợi ích, Hiền Nhân rất
thông minh, tài cao sức mạnh, lại có lòng nhân nghĩa cung kính. Hiền Nhân ít
nói, mà hễ nói gì thì miệng nở thêm một nụ cười, nên trong khi đối đãi người
không làm phật ý một ai cả. Ông thật là trong sạch và thiểu dục, không tham
sắc, giản dị, phép trị dân không làm phiền ai. Ông lại biết đuợc cả tai nạn,
cứu người khỏi chết, thương dân như con. Ông lấy đạo đức dạy dân. Khuyên họ
không nên say sưa săn bắn, chài lưới chim cá và loài dã thú, đừng sát sinh,
trộm cắp, dâm ô, dối trá, dèm xiểm, hổn ẩu, gian nịnh, ganh ghét, gây sự, kình
lộn, giận dữ, yêu nghiệt và nghi nan.
---o0o----
II.
Bấy giờ nhân
dân trong nước, nhờ Hiền Nhân giáo hoá đều trở nên hiền lương, từ khi ông làm
chính trị đến nay, nước nhà yên ổn, mưa thuận gió hoà, mùa màng trúng tiết, các
quan đều thừa hành pháp luật không dám nhiễu hại nhân dân nữa. Hiền Nhân thể
theo đạo vô vi, quý trọng Phật pháp, kính thờ bốn đạo, sa môn sáng chiều thường
tụ tập với người kêu Người bằng cậu, đứa cháu ấy rất hiền lành lại có chí, thường
tôn thờ Hiền Nhân như thầy, những bậc thức giả trong nước phần nhiều xu hướng
theo Hiền Nhân cả. Nhà Vua không còn lo điều gì, mọi việc đều phó thác cho ông.
Cũng vì nên bốn quan cận thần nể sợ không dám tung hoành như trước nữa. Họ đem
lòng ganh ghét, toan lập mưu hại Hiền Nhân, bốn người cùng nhau góp của cải,
mỗi người có đến ức vạn, chờ khi Vua ngự giá ra ngoài, liền đem lễ vật ấy dâng
lên Hoàng Hậu. Bốn quan tự trần:
-
Thưa lịnh bà, chúng tôi khi nào cũng hết lòng cung kính bà. Nay có vật
của nhà, xin đem dâng lịnh bà, vợ con chúng tôi sẽ là kẻ hầu hạ lịnh bà suốt đời.
Chúng tôi muốn lịnh bà cho phép chúng tôi thưa một chuyện.
Hoàng Hậu sẵn tính tham,
muốn nhận những lễ vật quý giá, liền vội vã đáp lại bốn vị cận thần:
-
Các quan muốn gì thì cứ nói đi.
Bốn vị cận thần đồng thưa:
-
Thưa lịnh bà, nay Đức Vua quá tin cậy Hiền Nhân, mà hắn là người thô
lậu, ăn mặc xấu như là hành khất. Vua trọng đãi quá, mà hắn không nghĩ gì đến
ơn Vua, lộc nước. Hằng ngày nói xấu lịnh bà, và khuyên Vua đừng lại phòng lịnh
bà, phải xa lánh lịnh bà, chúng tôi trộm nghĩ, Lịnh bà còn trong thời trẻ trung
cần phải có Thái tử để lập Đông cung. Nếu lỡ thời, thì sẽ tuyệt dòng, tuyệt
giống, biết lấy ai nối ngôi Vua trị nước. Lịnh bà nên nghĩ kỹ, nếu không lo sớm
trừ Hiền Nhân đi, thì sau này ăn năn không kịp.
Hoàng Hậu nghe nói, nổi
giận:
-
Hứ. Vua tin người ấy mà không biết mưu ác của hắn. Thôi, các quan hãy
ra về đi, để tôi tự lo liệu việc này. Ngày mai, các quan sẽ không còn thấy Hiền
Nhân nữa.
Sau khi bốn vị cận thần ra
về, Hoàng Hậu liền lấy trái Chi tử soa khắp mặt cho da vàng, sổ tóc rối tung,
rồi nằm sóng soài trên gường. Khi Đức Vua trở về, một thị nữ đến báo cho Vua
hay:
-
Tâu bệ hạ. Lịnh bà hôm nay có vẻ không vui.
Vua rất thương mến Hoàng
Hậu, nên lật đật qua thăm, nhưng hỏi đến đôi ba phen mà Hoàng Hậu vẫn không lên
tiếng trả lời, nhà Vua nổi giận quát lên:
-
Đứa nào có tội đáng chém thế? Khanh muốn Trẫm bắt tội đứa nào, nói đi?
Hoàng hậu khóc lóc, tâu Vua:
-
Bệ hạ, bệ hạ không nghe lời thần thiếp.
Vua dịu giọng:
-
Khanh muốn nói gì thì nói đi. Trẫm sẽ nghe lời.
Phu nhân được nước tâu Vua:
-
Hồi sáng khi bệ hạ đi khỏi, Hiền Nhân bèn đến nói với thiếp rằng: Nay
Vua đã già yếu, không có thể chấp chính được nữa, mà quan dân trong nước đều
tùng phục theo tôi, vậy lịnh bà hãy tính sao, để hai ta cùng nhau hưởng ngôi
trời, lộc nước. Thiếp nghĩ: Thằng ăn xin nhờ hồng phúc của bệ hạ mà được sung
sướng như thế, mà nay, nó âm mưu phản bội như vậy, nên thiếp rầu lắm.
Đức Vua nghe, dường như
người mắc nghẹn, nuốt vào đã không được mà khạc ra cũng chẳng xong. Ngài nghĩ:
-
Nếu không dùng Hiền Nhân thì sợ sau này sợ ân hận. Mà dùng, thì sợ
trong nước rối loạn.
Vua lại nghĩ:
-
Từ khi Hiền Nhân giúp ta đến nay đã được 12 năm trời, thường đem lòng
trung chính lo việc nước, diệt trừ tai hoạ cho nhân dân, kẻ xa người gần đều
biết và quý trọng như của báu trong nước, như vậy rất không nên trừ Hiền Nhân.
Nghĩ vậy đức Vua liền bảo Hoàng hậu:
-
Nếu trừ Hiền Nhân, trong nước sẽ rối loạn. Thôi, Khanh hãy vì nhân dân
nên cùng Trẫm nhẫn nại sự này đi.
Nghe Vua nói, Hoàng hậu gieo mình xuống đất khóc to
lên mà rằng:
-
Nếu bệ hạ không trị Hiền Nhân đi, thì thiếp sẽ nhảy xuống lầu tự tử cho
Bệ hạ xem. Bệ hạ sẽ không còn thấy mặt thần thiếp nữa.
Nhà vua lật đật chạy đến đỡ Hoàng hậu dậy và khuyên
dỗ:
-
Khanh cũng hiểu phép chứ. Việc này không phải nhỏ. Thôi, hãy ngồi dậy, để
cùng Trẫm bàn luận.
Hoàng hậu lại chỗ ngồi, Vua tiếp:
-
Ta không nên dùng dao gậy trị kẻ tu hành, phải dùng phương kế mà đuổi
đi mới được. Thế này, ta bớt phần cúng dường, sáng mai Hiền Nhân đến ta không cần làm lễ nữa,
chỉ cần vòng tay cũng đủ, cho Ông ngồi gường tre nhà dưới, ăn gạo lức đựng
trong chén sành, như vậy ông ta sẽ xấu hổ bỏ đi.
Nghe Vua nói thế, con Tân kỳ
ở dưới gầm gường gầm gừ ra vẻ không vui, chỉ có Hoàng hậu là lấy làm sung
sướng.
Sáng ngày, Hoàng Hậu làm
theo lời Vua phán, bảo quan Giám trù cứ thế mà thi hành. Lúc bấy giờ, Hiền Nhân
đến, đi vào cung, thì con chó chạy ra gầm gừ sủa, Hiền Nhân thấy Hoàng Hậu chỉ
chấp tay chào sơ sài và thấy cách bày biện có khác hơn mọi ngày, thì Ngài biết
ngay là có mưu kế gì đây. Người suy nghĩ:
-
Mình không muốn hại ai, mà nay người ta trở lại hại mình như vậy, chi
bằng phải lánh mặt vào núi tu hành cho xong. Quán nhơn sẽ sinh thù lớn, ta
không nên khinh thường, họ đã âm mưu, ta phải cẩn thận, ta đã cô thân lại yếu
đuối, lấy thế lực chánh trị, pháp luật mạnh hơn, nay đã có sẵn bát đựng cơm,
bình đựng nước, với giày cỏ, đẫy da, nón lá cũng đủ rồi. Mấy ai biết nghĩ sự
đời, nắng thời giúp nón, mưa thời giúp tơi.
Nghĩ thế, thọ trai xong, sửa sang hành lý, sắp sửa
lên đường.
Nhà Vua kinh hãi thưa rằng:
-
Ngài đi đâu thế?
Bối rối Vua quay lại chỉ Hoàng Hậu và bảo:
-
Chính Hoàng Hậu làm cho ta trái ý Ngài.
Rồi nhà Vua lại nắm lấy tay Hiền Nhân hỏi:
-
Ngài đi đâu thế?
Hiền Nhân đáp:
-
Tôi vì Vua, trị nước đã 12 năm, chưa thấy con chó Tân kỳ ngầu ngừ, tru
sủa như hôm nay, thấy nó sủa, tôi biết chắc có âm mưu chi đây! Nên tôi muốn đi
gấp.
Vua tạ lỗi:
-
Thật có như vậy. Ngài thật là người thông minh, biết những việc người
chưa từng biết, xin Ngài ở lại để tôi ra lịnh bắt kẻ ác, Ngài chẳng cần đi nữa.
Hiền Nhân lắc đầu:
-
Trước kia Vua hậu đãi, mà nay bạc bẽo, vã lại tôi cũng không có lỗi gì!
Lúc này tôi nên đi là phải. Ở đời có
thịnh ắt có suy. Có hội họp ắt có ly tán. Lành dữ vô thường. Hoạ phúc tự mình
chút lấy. Kết bạn mà không bền chắc, thì không nên thân. Thân mà không có chừng
độ, thân lâu sẽ có khinh lờ. Ví như múc nước giếng, múc sâu thì nổi cặn. Gần
người hiền được thêm trí huệ. Ở với kẻ dốt càng thêm ngu si. Thường thấy thì
hay khinh lờ. Xa nhau thì sanh oán giận. Giao tiếp với người lành nên qua lại
có chừng độ. Thân mà có cung kính thì thân lâu càng có hậu. Giao thiệp với kẻ
bất lương, họ ăn ở không thật thà, lời ngon tiếng ngọt, chẳng qua là để lợi
dụng mình, dù cho có kết hợp cũng không tin. Vua lấy lễ độ tiếp tôi, tôi cung
kính đáp lại. Nay Vua đối đãi khinh dễ thì tôi cách xa. Thân yêu nhau rồi có sự
giận ghét nhau. Khi thương thì muốn nhờ cậy, lúc ghét thì chẳng muốn gần. Lấy
sự cung kính nhau để cầu thân thiện. Lấy sự răn dạy lẫn nhau để tránh xa điều
ác. Mà nay có người chẳng phân biệt cái nào là ác, cái nào là thiện, ấy chẳng
phải là đạo an thân, người không có lỗi với mình thì mình không nên bày đặt sự
sai lầm mà vu oan cho họ. Người muốn xa ta, thì ta không nên miễn cưỡng gần họ.
Sự thương đã xa lìa, thì không nên nghĩ đến. Con chim đậu gãy nhánh còn biết đi
tìm nhánh khác để đậu. Huống chi làm người, qua lại có pháp độ, hà tất phải thủ
thường. Cành mục ta không nên vịn nắm. Người loạn ý, ta chẳng nên phạm nhầm họ.
Người muốn đem việc xấu cho nhau, dù thấy nhau cũng không vui. Ta xướng mà
người không phụ hoạ theo, nên biết đó là người ở bạc. Người muốn đem việc lành
cho nhau, thì dù chậm, dù gấp cũng phải đi. Đem lời trung chính nhắc nhủ nhau,
thì đủ biết người ấy là người có hậu. Mà nay lại có người không chịu gần người
hiền, chẳng lánh xa kẻ ác. Trước kính, sau khinh, không phân biệt kẻ hiền
người ngu, thì nếu ta không đi, còn đợi đến bao giờ mới đi. Hoàng Hậu ban đầu
lễ lạy, mà nay chỉ vòng tay, nếu ta không đi để đến chừng mắng đuổi rồi mới đi
hay sao? Ban đầu thì gường vàng, nay gường tre, ban đầu đũa ngà, chén ngọc mà
nay chén sành, đũa tre, ban đầu thì cơm ngon, canh ngọt, mà nay cơm hẫm, gạo
tấm. Vậy nếu ta không đi, để đến khi cơm đổ đất mới đi hay sao? Bạn trí thức gặp nhau như chủ đãi khách. Đêm
đầu thì quý trọng như vàng, đêm thứ hai thì làm lơ như bạc, đêm thứ ba lạc nhách
như đồng. Chứng cớ rõ ràng như vậy, nếu tôi không đi, đợi đến chừng nào mới
đi.
Vua thưa:
-
Nước Trẫm mà được giàu có, thịnh vượng là nhờ Ngài, nếu Ngài bỏ đi sau
này nước nhà ắc sẽ hại.
Hiền Nhân đáp:
-
Trong thiên hạ có 4 điều tự hoại:
Một
là Cây có nhiều hoa trái thì nặng, sẽ gãy nhánh.
Hai
là Rắn độc ngậm nọc độc, nọc độc sẽ trở lại hại nó.
Ba
là Kẻ làm tôi không hiền, thì sẽ hại nước nhà.
Bốn
là người làm việc bất thiện thì khi chết sẽ đoạ vào địa ngục.
Ấy là bốn điều tự hoại. Vậy nên trong Kinh dạy: Sự
độc ác do tâm sinh ra, và sẽ trở lại tự hại tâm mình, cũng như sắt sinh ra sét,
chất sét ấy trở lại tiêu hình của sắt.
Nhà Vua thưa:
-
Trong nước không có tôi hiền, mọi việc đều nhờ nơi Ngài. Nếu Ngài bỏ Trẫm
mà đi, thì nước nhà sau này sẽ nguy ngập.
Hiền Nhân đáp:
-
Làm người có 4 điều tự nguy:
Một
là Gánh vác việc nhà người.
Hai
là Làm chứng việc nhà người.
Ba
là Làm mai mối vợ chồng người.
Bốn
là Tin nghe lời tà xiểm.
Ấy là bốn điều tự nguy. Vậy nên trong Kinh dạy rằng:
“Người ngu chuyên làm việc ác, tự rước lấy sự tai hoạ vào thân. Đời nay vui lòng,
lung ý, đời sau mang tội rất nặng”.
Nhà Vua thưa:
-
Trẫm kính trọng Ngài như bạn quý, thường ở với nhau không khinh dễ,
Ngài chớ bỏ mà đi.
Hiền Nhân đáp:
-
Bạn có bốn thứ:
Một
là kết bạn như Hoa;
Hai
là kết bạn như Cân;
Ba
là kết bạn như Núi;
Bốn
là kết bạn như Đất.
Sao gọi là kết bạn như Hoa:
- Khi bông hoa còn tươi tốt thì dắt trên đầu, khô héo rồi, bỏ đi. Kết bạn cũng
thế. Hễ thấy giàu sang thì xu phụ theo, thấy nghèo nàn lại bỏ làm lơ.
Sao gọi là kết bạn như Cân:
- Khi để vật nặng thì đầu gục xuống, vật nhẹ thì đầu võng lên. Có qua lại thì
cung kính nhau, không qua lại thì khinh rẻ nhau.
Sao gọi là kết bạn như Núi: -
Hòn núi vàng, loài chim thú tụ về, lông cánh được chói màu vàng rực. Kết bạn cũng
thế. Khi sang thì sang với nhau. Khi vui đồng vui.
Sao gọi là kết bạn như Đất:
- Tất cả mọi vật đều dựa đất mà sinh, làm bạn để nuôi dưỡng, ủng hộ, ân hậu
không quên.
Nhà Vua thưa:
-
Nay Trẫm biết cái trí suy nghĩ của Trẫm còn cạn, hẹp, tin theo lời tà xiểm,
khiến Ngài Hiền Nhân phải ra đi!
Hiền nhân đáp:
-
Người có trí biết bốn việc không tin:
Một
là bạn tà nguỵ;
Hai
là bề tôi nịnh xiểm;
Ba
là vợ yêu nghiệt;
Bốn
là con bất hiếu.
Ấy là bốn cái không tin theo. Vì thế Kinh dạy: “Bạn
tà hại người, tôi nịnh hại triều, vợ yêu nghiệt phá nhà và con bất hiếu hại cả
cha mẹ.”
Nhà Vua thưa:
-
Trước kia Trẫm yêu quý, hậu trọng Ngài. Xin Ngài nghĩ lòng tốt của Trẫm
không nên bỏ đi vậy!
Hiền Nhân đáp:
-
Có mười trạng thái tỏ cho
biết là có yêu quý hậu trọng:
Một
là xa nhau lâu không quên;
Hai
là thấy nhau thì vui mừng;
Ba
là có món ngon vật lạ san sẻ cho nhau;
Bốn
là khi có lỡ lời đừng chấp trách nhau;
Năm
là nghe điều lành, càng thêm vui vẻ;
Sáu
là thấy việc dữ, đem lời trung chính mà can gián;
Bảy
là làm được những việc khó làm;
Tám
là không đem chuyện riêng nói với người;
Chín
là khi gặp việc bối rối, phải giải quyết cho nhau;
Mười
là đến lúc nghèo khổ, không rời bỏ nhau.
Ấy là mười sự yêu quý, hậu trọng. Nên trong Kinh có
dạy: “Bỏ dữ làm lành, tu tập đúng như pháp, đem lời trung chánh dạy dỗ nghĩa
hiệp có đạo”.
Nhà Vua nói:
-
Vì tội ác của bốn quan cận thần, nên Ngài giận không ưa Trẫm nữa.
Hiền Nhân đáp:
-
Có tám việc biết là không ưa
nhau:
Một
là thấy nhau, mặt đổi sắc;
Hai
là không liếc ngó, không thẳng thắn;
Ba
là lời nói không ôn hoà;
Bốn
là nói phải cho là quấy;
Năm
là nghe lời suy bại thì vui thích;
Sáu
là nghe lời hưng thịnh thì không vui;
Bảy
là huỷ bỏ chê bai việc tốt đẹp của người;
Tám
là tán thành việc ác của người;
Vậy trong kinh dạy rằng: “Lỡ đánh chết người, tội ấy
còn có thể dung thứ, dùng tâm độc âm mưu để hại người, tâm địa ấy rất không nên
gần”
-
Trẫm là người ngu si, không biết phân biệt kẻ trí người ngu, nên nghe
lời tà xiểm, làm trái mất ý thánh nhân.
Hiền Nhân đáp:
-
Có mười sự chứng tỏ đó là
người trí:
Một
là biết kẻ hiền, người ngu;
Hai
là biết kẻ sang, người hèn;
Ba
là biết kẻ giàu, người nghèo;
Bốn
là biết việc nào khó, việc nào dễ;
Năm
là biết việc nào đáng bỏ, việc nào nên làm;
Sáu
là biết nhiệm vụ của mình;
Bảy
là vào nước nào biết được phong tục của nước ấy;
Tám
là biết được chỗ trở về;
Chín
là học rộng, hiểu nhiều;
Mười
là biết được túc mạng.
Mười việc đó chứng tỏ người
có trí. Kinh dạy: “Khi tai nạn gấp rút mới biết được lòng bạn; có đánh nhau mới
biết kẻ yếu người mạnh; có luận nghị mới biết được người trí; lúc cơm thua, gạo
kém mới biết người có lòng nhân”.
-
Nước Trẫm từ khi được Ngài giúp đỡ, trong ngoài đều được an ổn, nếu nay
Ngài bỏ ra đi thì Trẫm biết nương nhờ ai nữa!
-
Có tám điều kiện để được an
ổn:
Một
là được của cha mẹ để lại;
Hai
là có nghề nghiệp bảo đảm lấy sự sống của mình;
Ba
là học thức cao;
Bốn
là có bạn hiền;
Năm
là có người vợ trinh lương;
Sáu
là có người con hiếu thảo;
Bảy
là tôi tớ được hoà thuận;
Tám
là xa lìa việc ác;
Đó là tám điều kiện để được
an ổn. Kinh dạy: “Sinh ra sẵn có của cha mẹ để lại và gặp được bạn hiền rất
thích; các việc ác không phạm đến và có phước thừa rất thích”
-
Lời của Thánh nhân, thật không một ai nghe mà không thích.
Hiền Nhân đáp:
-
Có tám cái thích:
Một
là cùng làm việc với người hiền;
Hai
là được học với bậc thánh nhân;
Ba
là tánh thể được nhân từ và ôn hoà;
Bốn
là sự nghiệp mỗi ngày mỗi hưng thịnh;
Năm
là diệt được tánh giận dữ;
Sáu
là biết phòng ngừa tai nạn;
Bảy
là biết nương gần đạo pháp;
Tám
là bạn bè không dối gạt nhau.
Kinh chép rằng: “Có Phật ra đời rất thích, diễn giảng
đạo pháp rất thích; chúng tăng nhóm họp và hoà thuận rất thích. Hoà thuận thì
thường an vui”
-
Ngài Hiền Nhân thường khi dễ khuyên can, mà sao nay lại khó cầm lắm
thế?
Hiền Nhân đáp:
-
Có Mười trường hợp mình không thể khuyên can:
Một
là tham lam che mất lương tri;
Hai
là tham đắm sắc đẹp;
Ba
là ưa danh vọng địa vị;
Bốn
là kẻ ngang tàng, bạo ngược;
Năm
là kẻ nhút nhác;
Sáu
là kẻ khờ khạo, lừ đừ;
Bảy
là kẻ kêu ngạo, buông lung;
Tám
là người ưa đấu tranh;
Chín
là người chấp tập tục, si mê;
Mười
là kẻ tiểu nhân.
Ấy là mười trường hợp, mà ta không thể khuyên can.
Kinh chép: “Nói pháp cho người ngu nghe cũng như nói với kẻ điếc, những ai khó
quá độ, thì không thể khuyên can”.
-
Trẫm là kẻ kêu ngạo, lại thêm buông lung, chưa thể xa lìa được sắc đẹp,
còn Ngài là người đã chứng pháp vô vi, lẽ nào không nói với Trẫm nữa.
Hiền Nhân đáp:
-
Có Mười trường hợp mà mình không nên nói với người:
Một
là kẻ ngạo mạn;
Hai
là kẻ ngu độn;
Ba
là kẻ hay lo sợ;
Bốn
là kẻ ham vui chơi;
Năm
là kẻ hay e lệ;
Sáu
là kẻ câm ngọng;
Bảy
là kẻ cừu hận;
Tám
là kẻ đói lạnh;
Chín
là kẻ mắc nhiều việc;
Mười
là người đang tham thiền tịnh lự.
Đó là mười trường hợp. Trong kinh có câu: “Làm được
hãy nên nói, làm không được thì đừng nói suông, lời hư nguỵ không thành tín,
thì các bậc minh triết không thèm đoái đến”.
-
Người đàn bà xinh đẹp, nói năng khôn khéo êm tai, mà trong thì tội ác
ngoại dâm thì căn cứ vào đâu mà hiểu được họ?
Hiền Nhân đáp:
-
Có Mười triệu chứng sẽ hiện
diện cho ta thấy:
Một
là đầu tóc rối bời, nghiêng qua một bên;
Hai
là mặt hay biến sắc và mồ hôi tự nhiên chảy;
Ba
là lớn tiếng nói cười;
Bốn
là hay liếc ngó không đoan chính;
Năm
là trang sức lộng lấy;
Sáu
là hay nhìn trộm qua kẻ vách;
Bảy
là ngồi không yên;
Tám là
hay dạo chơi trong xóm làng;
Chín
là hay đi dạo ngoài đồng vắng;
Mười
là hay giao thiệp với hạng dâm nữ.
Kinh chép: “Đàn bà, con gái thật khó tin, lời nói
khôn khéo của họ rất dễ hại người, vì thế bậc cao sĩ lánh xa, không muốn thân
cận”.
-
Trẫm thấy thường thì người ta hay thân cận và tin cậy đàn bà. Mà không
biết tội ác lừa gạt của họ.
Hiền Nhân đáp:
-
Có Mười việc không nên thân cận và tin cậy:
Một
là vua tôi hậu đãi;
Hai
là tình nhân của một người đàn bà mình quen;
Ba
là kẻ ỷ sức mạnh;
Bốn
là kẻ ỷ giàu tiền của;
Năm
là chỗ nước chảy rất mạnh;
Sáu
là chỗ nhà cũ, tường xiêu;
Bảy
là hang rồng, hang rắn;
Tám
là chỗ quan quân tra xét;
Chín
là chỗ của kẻ đã thù giận mình;
Mười
là chỗ có trùng độc.
Ấy chính là mười việc không nên thân cận và tin cậy.
Trong kinh có câu: “Những ai bảo uống rượu không say, những ai bảo đã say không
loạn, và Vua hậu đãi, đàn bà thương yêu, tất cả những cái ấy rất khó tin cậy”.
-
Như lời Ngài nói thì có nhiều trường hợp thương nhau quá, rồi cũng ghét
nhau quá. Trẫm rất ghét như vậy, và quả thật cái đó đáng ghét lắm.
Hiền Nhân đáp:
-
Có Năm cái ghét:
Một
là ác khẩu hại người;
Hai
là dèm pha, xiểm nịnh và thúc dục sự đấu
tranh;
Ba
là rầy rà không thuận hoà;
Bốn
là ganh ghét và trù rủa.
Năm
là nói hai lưỡi, gạt người.
Kinh dạy rằng: “Làm cho kẻ khác mệt nhọc và mình
muốn mong sự hay ho về phần mình, thì chỉ rước vào thân, tự gây lấy oán thù sâu
nặng”.
-
Làm thế nào để người kính mến?
Hiền Nhân đáp:
-
Có Năm tính tốt này thì được
người cung kính:
Một
là nhu hoà nhẫn nhịn;
Hai
là cung kính và có tín tâm;
Ba
là mau mắn và ít nói;
Bốn
là lời nói đi đôi với việc làm;
Năm
là đối với bạn càng lâu càng thâm hậu;
Năm điều ấy là đặt tính làm cho người ta cung kính
mình. Trong Kinh có câu: “Nếu biết thương lấy mình thì phải dè dặt giữ mình.
Các bậc hiền sĩ có chí hướng cao thượng, học hiểu chính đáng thì không bao giờ
lầm lạc”
-
Còn vì sao bị người khinh mạn?
Hiền Nhân đáp:
-
Năm nguyên do này bị người
khinh mạn:
Một
là kẻ râu dài mà ngã mạn;
Hai
là áo quần dơ bẩn;
Ba
là thiếu suy nghĩ;
Bốn
là dâm ô, vô lễ;
Năm
là chơi bời không tiết độ.
Kinh dạy: “Giữ và thâu nhiếp ý tưởng vào chỗ chính
cũng như ngựa thâu dây cương, không kiêu, không mạn thì bậc Người và bậc Trời đều
cung kính”
Nhà vua năn nỉ:
-
Xin Ngài lưu ý cùng Trẫm trở về Tịnh xá.
Hiền Nhân đáp:
-
Có Mười kẻ mà mình không nên
mời về nhà:
Một
là thầy ác;
Hai
là bạn Tà;
Ba
là kẻ hay khinh bỉ bậc Thánh thần;
Bốn
là kẻ hay nói tráo trở;
Năm
là kẻ dâm ô;
Sáu
là người thèm rượu;
Bảy
là kẻ có tánh xấu;
Tám
là người không biết ân nghĩa;
Chín
là đàn bà con gái mất nết;
Mười
là kẻ tuỳ thiếp ưa trang sức.
Đó là mười hạn người không nên mời đến nhà. Kinh
chép: “Lánh xa người ác, đừng làm bạn dâm lung; chỉ nên tùng sự các bậc hiền
giả, mới mong thành người minh đức.
-
Được Ngài ở lại thì Trẫm cùng thiên hạ được an vui vô sự, nay Ngài bỏ
đi thì nhân dân oán trách Trẫm.
Hiền Nhân đáp:
-
Có Tám điều kiện để được an vui:
Một
là dâng thờ kính thuận các sư trưởng;
Hai
là đem sự hiếu thuận dạy cho dân;
Ba
là khiêm nhường kẻ trên người dưới;
Bốn
là phải tập tánh nhân đức ôn hoà;
Năm
là đến cứu người trong cơn nguy cấp;
Sáu
là phải quên mình, nghĩ đến người;
Bảy
là phải thu thuế, ăn lời nhẹ và phải biết tiết kiệm;
Tám
là bỏ hận thù xưa. Đó là tám điều kiện để đuợc an vui.
Trong Kinh có câu: “Chuyên tu cội đức, nghĩ trước
rồi làm sau, cứu giúp người trong cơn nguy cấp và bần khổ, thì trọn đời được an
vui.”
-
Trẫm luôn luôn nghĩ tới hiền nhân, nào có bao giờ lãng quên!
Hiền Nhân đáp:
-
Bậc Trí giả có Mười điều
luôn nghĩ tới không bao giờ lãng quên:
Một
là khi gà gáy sáng, đã nghĩ tới tội lỗi mà lo việc phước đức để đền bù lại;
Hai
là nhớ việc hầu hạ tôn nhân;
Ba
là gặp việc gì phải suy nghĩ, dự bị trước;
Bốn
là phải lo nghĩ lánh xa sự nguy hại;
Năm
là phải nghĩ trước mới nói sau, để khỏi phải lầm lạc;
Sáu
là phải đến những kẻ lạc lầm mà đem lời trung chính dạy bảo nhắc nhủ họ;
Bảy
là phải nghĩ đến những kẻ nghèo khổ để thương xót cấp hộ;
Tám
là phải lo làm việc bố thí nếu mình có của;
Chín
là phải nghĩ để sự ăn uống cho có chừng độ;
Mười
là phải nhớ giữ sự công bình khi phân xử hoặc phân chia.
Mười một là phải nhớ đem ân từ bố thí dân gian;
Mười hai là phải thường nghĩ đến sự huấn luyện, nếu mình là quân sĩ hay võ
quan.
Đó là mười hai điều mà kẻ trí giả phải nghĩ đến. Vậy
nên trong Kinh có câu: “Làm việc gì phải lo dự bị trước, như vậy sự nghiệp sẽ
mỗi ngày mỗi lớn, không khi nào thất bại.”
III.
-
Tiếc rằng Trẫm không có một bậc đại hiền nào để cầu Hiền Nhân lại cho Trẫm.
Hiền Nhân lại tiếp:
-
Bậc Đại hiền có 10 hạnh tốt:
Một
là học rộng, hiểu nhiều;
Hai
là không phạm giới luật trong Kinh dạy;
Ba
là kính thờ Tam Bảo;
Bốn
là thọ pháp lành không quên;
Năm
là kiềm chế được tham, sân, si;
Sáu
là tu được pháp bốn tâm bình đẳng;
Bảy
là ưa làm việc ân đức;
Tám
là không nhiễu hại chúng sinh;
Chín
là hay quá độ được người bất nghĩa;
Mười
là không lầm lộn việc lành, việc ác.
Kinh dạy: “Gặp được bậc Đại hiền rất khó, như ít có
lắm vậy, các bậc ấy ở đâu thì bà con quyến thuộc và người xung quanh đều được
nhờ cậy”.
-
Thật là tội Trẫm quá nặng, nuôi dưỡng kẻ ác, làm cho Ngài giận mà bỏ
đi.
Hiền Nhân đáp:
-
Kẻ đại ác đại khái có 15 tội
nặng:
Một
là sát sanh;
Hai
là trộm cắp;
Ba
là quen thói dâm ô;
Bốn
là dối trá;
Năm
là nịnh hót;
Sáu
là chút ngót;
Bảy
là dèm pha;
Tám
là khinh bậc hiền sĩ;
Chín
là tham sự ô trượt;
Mười
là buông lung;
Mười một là say sưa;
Mười hai là ganh ghét kẻ hiền;
Mười ba là huỷ báng đạo đức;
Mười bốn là sát hại thánh nhân;
Mười lăm là không kể tội lỗi.
Đó là lăm điều tội ác của kẻ phàm ngu. Trong kinh có
câu: “Gian trược, tham lam, oán người lương thiện, làm việc bất chính thì khi
chết đoạ vào ác đạo”.
-
Trẫm năn nỉ Ngài mãi mà không được, lấy làm hổ thẹn quá.
-
Người đời có 10 cái hổ thẹn:
Một
là làm Vua không hiểu chính trị;
Hai
là tôi thần mà vô lễ;
Ba
là thọ ân không lo báo đáp;
Bốn
là có tội lỗi không chịu chừa bỏ;
Năm
là một vợ hai chồng hay một chồng hai vợ;
Sáu
là chưa cưới mà có thai;
Bảy
là tập hợp không thành;
Tám
là có binh khí mà không thể chiến đấu;
Chín
là kẻ bỏn xẻn thấy người bố thí;
Mười
là tôi tớ mà chủ không sai khiến được.
Đó là mười cái đáng hổ thẹn. Kinh chép: “Những ai
biết hổ thẹn đều là kẻ rất dễ dạy, rất dễ sách tấn, cũng như điều khiển ngựa
hay”.
-
Nay Trẫm biết rằng: Người đạo đức rất khó chìu chuộng.
-
Có mười hai điều khó:
Một
là làm việc với người ngu;
Hai
là yếu đuối chống được lại với sức mạnh;
Ba
là thù nhau mà ở chung một nhà;
Bốn
là học ít mà đứng ra nghị luận;
Năm
là nghèo hèn mà trả được nợ;
Sáu
là ra trận không có tướng sĩ;
Bảy
là thờ Vua trọn đời;
Tám
là học đạo mà mất tín tâm;
Chín
là làm ác mà muốn quả báo đẹp;
Mười
là sinh ra đời được gặp Phật;
Mười một là được chánh pháp của Phật;
Mười hai là làm theo được chánh pháp ấy mà thành tựu.
Đó là mười hai cái thật khó.
Kinh dạy: “Được làm người là
khó; gặp Phật ra đời là khó; được nghe giáo pháp của Ngài là khó; Vâng làm theo
giáo pháp ấy thật khó”.
Nhà vua khen ngợi:
-
Gần bậc minh đức thật có lợi. Đàm luận với Ngài, Trẫm lại được thêm trí
tuệ.
-
Người có trí tuệ đại khái
biết 45 việc:
Một
- là sửa sang nhà cửa;
Hai
- là gây một không khí hoà hợp trong gia đình;
Ba -
là giao thân với chính họ;
Bốn -
là tin ở bạn bè;
Năm
- là theo học với bậc minh sư;
Sáu
- là làm việc gì quyết cho thành tựu;
Bảy
- là tài trí cao rộng;
Tám
- là mọi hành vi đều hướng về việc lành;
Chín
- là giàu sang thì lo làm việc ân đức;
Mười
- là tạo tác và sửa sang đều phải thận trọng;
Mười một - là có của phải mở mang sự nghiệp;
Mười hai - là không giao của cải cho con cái, nếu chúng còn quá nhỏ;
Mười ba - là kết bạn với người hiền;
Mười bốn - là không quá tin những ai vừa mới quen biết;
Mười lăm - là tiền của ở chỗ huyện quan là phải đem về, đừng để lâu;
Mười sáu - là mua bán đổi chát phải thật thà, không hề lường gạt;
Mười bảy - là về ở nơi nào phải đến xem trước;
Mười tám - là đến đâu phải biết đó giàu hay nghèo, quý hay tiện;
Mười chín - là phải giao thiệp thân cận với người lành;
Hai mươi - là phải nương tựa vào một thế lực;
Hai mươi mốt - là đừng tranh hơn kém với kẻ cường bạo;
Hai mươi hai - là xưa giàu mà nay suy thì có thể mong phục hưng cơ nghiệp;
Hai mươi ba - là nếu bần khổ thì đừng có cao giọng to tát;
Hai mươi bốn - là có của quý không khoe với người;
Hai mươi lăm - là việc bí mật, đừng nói cho vợ nghe;
Hai mươi sáu - là làm Vua phải kính người hiền đức;
Hai mươi bảy - là phải ăn ở có hậu nhất là với bậc trung tín;
Hai mươi tám - là nếu thanh liêm có thể dùng trị nước hay có thể đứng ra trị nước;
Hai mươi chín - là gặp việc, phải lo lập công;
Ba mươi - là trong công cuộc giáo hoá, lấy sự hiếu thuận làm căn bản;
Ba mươi mốt - là phép của ông thầy, là quý sự ôn hoà như thế học trò đủ cung kính;
Ba mươi hai - là thầy có nhiều học trò là phải dạy chúng làm việc trung nghĩa;
Ba mươi ba - là làm thuốc phải hiệu nghiệm, nghề còn vụng chớ đem ra thi thố;
Ba mươi bốn - là đau ốm phải nghe lời thầy thuốc;
Ba mươi lăm - là ăn uống phải giữ cho có độ lượng;
Ba mươi sáu - là có của ngon, vật lạ chia sẻ cho nhau, đừng tiếc;
Ba mươi bảy - là cho ai hoặc cho ai mượn gì là mình phải tự tay mình trao cho họ;
Ba mươi tám - là làm chứng cớ cho người chính;
Ba mươi chín - là đừng vu oan cho kẻ vô tội;
Bốn mươi - là can gián sự oán giận và làm cho sự thuận thảo trở lại giữa hai
người;
Bốn mươi mốt - là nhẫn nại và xa lánh việc ác;
Bốn mươi hai - là đừng phân biệt giàu nghèo mà ở với người;
Bốn mươi ba - là lấy sự thuận hoà làm quý;
Bốn mươi bốn - là theo đạo thì phải giữ giới;
Bốn mươi lăm - là lấy sự trong sạch làm quý hơn tất cả.
Trong trần thế, chỉ có đạo
Niết Bàn là cao quý hơn cả. Vì sao? Vì Niết Bàn là cảnh giới không có sự già
nua, bịnh, chết, không đói lạnh, không tai hoạ, nước lửa, không oan gia, không
trộm cướp, không dục vọng ân ái, không lo buồn hoạn nạn, không tất cả những khổ
sở đau đớn. Cảnh giới đó là diệt độ. Diệt độ không phải là một sự chết, nhưng
đó là sự giải thoát tự tại của mình. Cảnh giới ấy hoàn toàn yên vui. Một niềm
vui thanh tịnh vô biên. Có thể kiến lập cảnh giới ấy trên trần thế cho riêng
mình và cho chung tất cả muôn loài. Bệ hạ hãy tự lo, tự tu, tự tịnh lấy. Bệ hạ
hãy tự thương lấy Bệ hạ, Hiền Nhân này xin lên đường.
Vua lại hỏi:
-
Ngài lên đường, thế không còn răng dạy Trẫm điều gì nữa ư?
Hiền Nhân đáp:
-
Chỗ đất bị nước mạnh xói lỡ, thì dù một trăm năm sau cũng không nên
dựng lấy một cái gì trên ấy. Vì dòng nước sẽ theo thói cũ mà lôi cuốn đi mất
tất cả. Người có ác tâm mà bây giờ họ bảo mình là bắt đầu làm lành, thì mình
quyết không nên tin vội. Vì tâm ác của họ chưa diệt, họ sẽ trở lại làm việc ác,
ta phải nên dè dặt. Người muốn làm việc gì phải lần lần, như người đào giếng,
đào mãi xuống sâu, sẽ có mạch nước. Kẻ trí giả thấy sự nguy hiểm hoặc bất bình
giữa cuộc thế thì hay ra tay cứu giúp. Cũng như người có tài bơi lội, có thể
lội ngang qua dòng nước mạnh.
Nhà Vua thưa:
-
Lời dạy của Ngài từ trước đến sau, Trẫm đều ghi nhớ trong lòng. Và rồi
đây, tất cả những trang sĩ phu trong nước nghe được sẽ không một ai là không
vui mừng. Việc ác trước kia sẽ dẹp bỏ hết, không ai còn dám nói đến nữa.
Ngừng một lát, Vua tiếp:
-
Trẫm muốn nghe lời Ngài dạy, và nếu như có người nào khác đến, thì Trẫm
làm sao biết được người đó là bậc trí?
Hiền Nhân đáp:
-
Chỗ vấn đáp người trí bao giờ cũng khác xa kẻ tầm thường, không lời nói
nào của họ mà không phải là lời nói lành. Bậc thầy bao giờ cũng chính đáng, và
những đức tính này, chứng tỏ rằng kẻ ấy là bậc trí giả. Nhân từ, mền mỏng, cẩn
thận, chắc thật, ôn hoà, nhã nhặc, lời nói hoạt bát, và hay hâm mộ các việc
lành, Bệ hạ đừng có nghi nan gì nữa. Nghe lời nói, thấy việc làm của họ thì
biết là tâm và khẩu giống nhau. Xem cách cư xử, vẻ đi đứng của họ mà biết là
không giả dối. Nghiệm việc họ làm, cách ăn mặc, cách làm lụng cũng dư biết là
bậc trí tuệ. Đàm luận với người trí phải cho vừa ý họ, mà muốn cho vừa ý họ thì
thiệt là khó.
-
Trẫm muốn tôn thờ người trí mà đừng làm mất ý họ thì phải làm sao?
Hiền Nhân đáp:
-
Kính mà đừng khinh. Nghe lời dạy phải làm theo. Vì chỗ hiểu biết của người
trí rất đúng. Bao giờ họ cũng thể theo chánh đạo và không có tâm tham cầu, lại
có thể suy xét rõ được việc quá khứ, hiện tại và tương lai. Tầm mắt của bậc trí
giả rất rộng, họ thấy rõ muôn vật trong không gian và thời gian đều chỉ là biến
hiện, muôn pháp đều quay về nơi nhất điểm, không tịch bản nhiên. Kẻ trí giả nhìn
thấy rõ ràng đời là một sự biến đổi tan thương, trẻ trung rồi sẽ già nua, cường
tráng rồi sẽ suy nhược. Có sống thì sẽ có chết. Giàu sang như mây nổi, đều là
vô thường cả. Cho nên, lúc an ổn phải nghĩ đến khi nguy ngập, khi hưng thịnh
thì phải nghĩ đến lúc vô thường. Người lành thì kính mến, người ác thì phải
lánh xa. Nếu có giận hờn ai thì nên trừ bỏ, đừng vì thế mà gây ác, hại người. Nhu
hoà mà khó xâm phạm, yếu đuối mà khó thắng. Người trí như vậy đó, ta không nên
khinh thường.
-
Trẫm hết sức cung kính, tôn sùng người trí, như thế có phước chi chăng?
-
Người trí theo phép thánh hiền thường làm việc nhân từ và ưa dạy dỗ kẻ
ngu muội trở nên sáng suốt như họ. Người trị nước thì nên ban bố ân huệ cho kẻ
làm lành. Kẻ tu hành thì lo dẫn dắt mọi người về nơi chánh đạo. Quốc gia có cấp
nạn, thì cùng nhau đàm luận lo toan, tới lui, phải biết thời thì khỏi phải bị
nghi ngờ oán trách. Tuy có ân trọng đức lớn với người, nhưng đừng có mong cầu
người báo đáp. Thờ người trí thì được phước và trọn đời không mắc phải tai nạn.
Bệ hạ đừng có nghi nan. Pháp chánh trị không nên trái với lý đạo. Dạy dân làm
lành thì càng ngày càng đem lại lợi ích cho đất nước.
Đức Vua than thở:
-
Có ai nữa để cầm Hiền Nhân lại giúp ta. Trời ơi, thật lòng Trẫm thật
sầu thảm, hoảng hốt như kẻ điên cuồng.
Vua bèn rơi luỵ, khóc lóc, đến trước Hiền Nhân sám
hối, cầu xin xá tội.
Hiền Nhân đỡ:
-
Ví như người không có tài bơi lội, thì không nên xuống dưới nước sâu.
Biết người cừu hận với ta, ta cũng không nên hại họ, Đời có thân hậu nhau, rồi
có gây gỗ nhau. Có gây gỗ nhau, rồi sau lại xin lỗi. Tuy hoà giải khéo lắm, nhưng
mà chi bằng trước kia đừng gây gổ là hơn. Nay người lành mà Bệ hạ không ban
thưởng, trở lại nghe dèm xiểm, Hiền Nhân này cũng như con chim bay, không nhất
định đậu ở cành nào. Đạo pháp của Hiền Nhân không thể lẫn lộn với lỗi lầm như
thế, để mất chỗ thanh cao quý giá, cũng như lửa cháy ngoài đồng trống, những
cây gần bên sẽ bị cháy xém. Thấy chỗ có nước xoáy là thuyền quay, thấy độc
trùng là hại người. Vì vậy, Hiền Nhân muốn tùng sự với người trí để khỏi bị ngu
hèn quấy nhiễu. Hiền Nhân này đã rõ rằng, cây cỏ mỗi thứ mỗi khác. Loài chim
muông cũng thế, Bạch Hạc thì lông trắng, chim Quạ thì lông đen. Nay Hiền Nhân
khác mà ai kia cũng khác, nên Hiền Nhân này không muốn lưu lại trong Hoàng cung
nữa. Đem cái áo lụa đẹp, mặc cho người nhà quê cày ruộng thật là vô ích. Vì
sao? Người nhà quê ấy, chỉ quen bùn đất làm gì biết mặc áo lụa đẹp, mà có mặc
cũng chỉ làm hư. Ở nhân gian, có một thứ cây gọi là Phản lệ, người chủ trồng nó
thì không được ăn trái, còn có kẻ muốn hái trộm, thì trái lại sinh ra cho mà
hái. Bệ hạ cũng như cây ấy. Người giúp nước được an ổn lại hất hủi, đuổi xô.
Còn kẻ nịnh thần gian dối, phá tan việc triều chánh, lại cầm ở lại cho ăn bổng
lộc. Khách ở lâu, chủ nhà sinh nhàm chán. Nên Hiền Nhân này phải đi đây!
Nhà Vua kính cẩn thưa:
-
Mạng người rất trọng, cúi xin Ngài mở lòng từ nghĩ thương đến. Trẫm nay
muốn đem thân mạng tôn thờ Ngài hơn xưa.
Hiền Nhân đáp:
-
Bệ hạ nói vậy, nhưng cũng chưa chắc gì làm được. Ý phu nhân rất độc ác.
Hiền Nhân này không nên ở lại làm gì. Hiền Nhân là vị sa môn mang bình bát khất
thực, tự vui và dứt trừ tham vọng, giữ trọn giới luật của đạo và xa lìa tất cả
tội lỗi.
Nhà Vua khẩn khoản:
-
Ngài đã quyết định, Trẫm không thể cản ngăn. Nhưng xin Ngài chớ đoạn
tuyệt. Cúi mong Ngài một phen trở lại, để lòng Trẫm khỏi ân hận.
-
Nếu như Bệ hạ và Hiền này đều mạnh giỏi thì có lúc gặp nhau. Hiền này
muốn vào núi để tu dưỡng tính tình, rèn thêm chí cả. Gần nhau, để mà nghĩ đến
chuyện ác hại nhau thì chi bằng xa nhau, mà nhớ nhau trong tâm niệm lành. Người
trí nghe thí dụ cũng đủ rõ. Nay, Hiền Nhân này xin đem một câu chuyện để thí dụ
Bệ hạ nghe. “Như người lấy mật xoa vào lưỡi dao, đưa cho con chó liếm, vì tham
chút ngọt nên bị đứt lưỡi, mà chó không biết đau đớn. Nay bốn quan cận thần
cũng vậy, chỉ nói ngon ngọt ngoài miệng mà trong tâm dường như dao bén. Vậy Bệ
hạ phải đề phòng cho lắm. Và từ đây về sau, nếu gặp những sự kinh hãi, Bệ hạ
thường nhớ đến Hiền này, thì kinh sợ sẽ tiêu tan. Loài chim Cú, chim Mèo thì ưa
ở nơi bụi rậm. Chuột, bọ thì ưa núp dưới đống rơm, đống rác. Chim chóc thì đậu
ở trên cành, mà chỉ có con Hạc là ưa ở gần ao nước đục. Mỗi vật đều có một tánh
riêng, chí nguyện bất đồng. Sự ưa thích có khác, Hiền Nhân này mến đạo, Bệ hạ
thì ưa việc trị dân. Đó là sự sai khác. Những vật thô xấu, cũng đều có chỗ cần
dùng, không nên phí bỏ tồi tàn. Hạng người nào, dù bần tiện, ngu hèn đến đâu,
ta cũng không nên hất hủi, họ đều là những người hữu dụng. Dụng nhơn như dụng
mộc. Bệ hạ phải hiểu như vậy. Hiền này cũng đã biết người, biết lời nói, biết ý
nghĩ của họ thế nào rồi. Con chim ban đầu đậu ở cành thấp, sau nhảy lên nhánh
cao. Hiền Nhân thấy chó Tân kỳ sủa, biết rằng, không ngoài thì trong, đã có sắp
đặt mưu mô gì đó, nên trong lòng chán ngán. Thôi, để Bệ hạ chuộng mới quên cũ.
Hiền này xin đi.
Nói xong, liền đứng dậy, mang bát, chống tích trượng
ra khỏi thành.
Đức Vua cùng Hoàng hậu khóc
lóc đi đưa, người trong nước lớn, nhỏ không ai là không kêu rêu, oán trách. Nhà
Vua ủ rũ theo sau Hiền Nhân hỏi bằng một giọng buồn rầu.
-
Ngài đi thì Trẫm còn biết tin nhờ ai nữa.
Hiền Nhân đáp:
-
Có người con của chị Hiền, rất là hiền lành. Bệ hạ nên đàm luận cùng
nó. Lúc nào rãnh, bệ hạ hãy cùng nó ra tuần hành trong nước và nghe những câu
ca dao của dân chúng, nó có thể biết được trong nước thịnh suy, còn mất.
Nhà Vua đáp:
-
Trẫm xin nghe lời Ngài dạy.
Rồi Vua cùng đình thần và nhân
dân làm lễ Hiền Nhân, rồi tiễn người ra khỏi thành quá một đoạn đường.
Từ ấy về sau, nhân kẻ trung
chính đi rồi, thì kẻ loạn thần tha hồ tung hoành gian nịnh. Ngoài thì bốn quan
cận thần cậy thế bắt ép lương dân, trong thì Hoàng hậu dùng thói yêu nghiệt,
làm nhà Vua mê hoặc không còn lo nghĩ đến việc nước, chỉ dâm lung, ưa vui ngày
đêm vùi thân trong say đắm. Quan liêu cầm quyền tự do thâu thuế, bắt ép nhân
dân không một chút từ tâm, nhân đạo. Kẻ lấy thuế chợ mà không thèm nhìn món đồ,
người mạnh lấn hiếp kẻ yếu, bóc lột tàn sát lẫn nhau, không kể gì đến pháp
luật. Có kẻ lại bắt con gái của người về làm nô lệ, tỳ thiếp. Thân thuộc ly
tán, tìm đường trốn tránh, tản lạc, mỗi người sống vất vưởng mỗi nơi, tai hoạ
liên miên mà nhà Vua không bao giờ biết đến. Mưa gió không phải thời, trồng
trọt mất mùa, nước loạn dân nghèo, sự đói khó đầy đường, tiếng than van oán
trách phổ vào câu ca dao cảm động đến quỷ thần. Nhân dân sầu khổ, lo sợ chết
không biết bao nhiêu. Kẻ sống vừa than khóc vừa đi, không một ai không nhớ
tưởng và mong cầu Hiền Nhân độ trước.
IV.
Hiền Nhân như
chim Ưng, Vua của loài chim dẹp trừ được người gian ác, lại sẳn có lòng nhân từ
thương xót mọi loài, bây giờ còn người đâu nữa để cứu yên lòng dân và cứu muôn
ngàn tai ách. Con của chị Hiền Nhân tên là Đạo Nhân, sau khi đi qua quận huyện
khác trở về, thấy trong nước loạn lạc, xóm làng hư hoại, nhân dân cùng khốn,
bèn vào cung tâu với nhà Vua:
-
Tâu Bệ hạ, các quan đại thần làm việc bất chính, buông kẻ trộm cướp,
bắt giết kẻ vô tội, tàn hại dân gian hết đường vô nhân đạo. Muôn dân oán than,
quỷ thần giận dữ nên gieo nhiều tai hoạ. Đâu đâu cảnh khổ cũng tràn lan, mà Bệ
hạ thì không hay biết gì cả. Nếu Bệ hạ không sớm trừ bọn loạn thần gian ác ấy,
thì sau này sẽ không còn một lương dân.
Nhà Vua nghe nói, kinh hãi, hoảng sợ đáp:
-
Trẫm đã dùng bốn tên loạn thần phá hại nước nhà, chẳng khác gì thả chó
sói trong bầy cừu vô tội. Trẫm chắc thế nào dân chúng cũng bị khốn ách. Trẫm đã
buông cương mặc cho con ngựa điên lôi kéo cỗ xe trị quốc, thế nào nó cũng kéo
xe xuống hố sâu. Ngài đến đây thức tỉnh Trẫm và bảo Trẫm như thế, bây giờ Ngài
có cách gì dạy Trẫm để trị an xã tắc được không?
Đạo Nhân thưa:
-
Từ khi cậu tôi ra đi đến nay, trong nước bị rối loạn luôn, tất cả đều
do bọn gian thần, Bệ hạ phải trù tính phương kế gì để hưng phục lại giang sơn.
Nước nhà còn có thể hưng phục được, xin Bệ hạ hãy cùng thần du hành một phen,
để chính mắt Bệ hạ được thấy, chính tai Bệ hạ được nghe những nổi thống khổ,
rồi mới biết thế nào là đúng sự thật.
Nhà Vua liền cùng
Đạo Nhân cải trang ra đi để dò xét tình hình trong nước. Vừa ra khỏi thành thì
thấy một toán phụ nữ xiêm y rách rưới, vừa đi vừa khóc. Đạo Nhân thấy thế liền
hỏi:
-
Các chị, tại sao mà khổ sở rách ruới như vậy? Sao không lo làm ăn? hoặc
có khó khăn lắm thì đi lấy chồng để nhờ chồng. Tuổi tác các chị đã lớn rồi kia
mà.
Một người trong bọn trả lời:
-
Cũng bởi vì nhà Vua cả. Phải chi nhà Vua rách rưới nghèo đói như chúng
tôi, thì mới bỏ ghét.
Đạo Nhân bảo:
-
Các chị nói như thế là không đùng rồi. Vì nhà Vua là bậc cao sang, chỉ
lo những việc to tác, đau có thì giờ lo cho các chị được. Các chị phải tự đi
làm mà sinh sống lấy chứ.
-
Không, không phải vậy đâu! Vì Vua trị nước không minh, nên ở trong nước
thì đói rách và loạn lạc. Ngày thì khốn với bọn quan lại tham ô vơ vét. Đêm thì
khốn với bọn trộm cắp tứ tung. Áo không đủ mặc, cơm không đủ ăn, vì thế mà ai
thèm cưới gả chúng tôi nữa chứ.
Đi một quãng nữa, nhà Vua
gặp một bà già, áo không kín thân, hình hài gầy yếu, mắt loà sờ soạng, vừa đi
vừa khóc lóc.
Đạo Nhân hỏi:
-
Bà già lo lắng gì mà khóc vậy?
Bà già ngẩng lên đáp:
-
Ôi, vì nhà Vua cả. Phải như nhà Vua mà mù như lão đây thì mới đáng
kiếp. Lão sung sướng lắm vậy.
Đạo Nhân bảo:
-
Bà nói như vậy là lầm rồi. Hễ già thì mắt mờ. Nhà Vua có lỗi chi đâu!
Bà lão phân trần:
-
Đêm thì bị cướp, ngày thì bị quan lại hiếp bức, phải chịu nghèo đói,
nên lão đây mới phải hái rau, lượm củi đổi gạo để nuôi sống, đạp phải độc trùng, vướng
phải độc khí nên mới bị mù què như thế này đây! Vậy thì không phải lỗi của nhà Vua
hay sao?
Vua tôi lại đi đến một quãng
đường, thấy có người đàn bà đang lom khom nặn sữa bò, con bò đá một cái, người
đàn bà ngã lăn xuống đất, lòm còm bò dậy mắng:
-
Phải chi mày đá Hoàng hậu, vợ Vua một đạp như vậy cho bỏ ghét, mày đá
tao làm gì.
Đạo Nhân liền hỏi:
-
Tự con bò dữ đạp bà, chứ Hoàng hậu có tội lỗi gì.
-
Không lỗi sao? Nhà Vua bất chính. Vợ Vua sui xiểm. Nước nhà mới rối
loạn, không sớm ngăn trộm cướp để nó bắt bò lành của tui, chỉ để lại một con bò
dữ, vắt sữa nó là nó đạp một cái đau điếng người, tại nhà Vua chớ ai nữa.
Đạo Nhân bảo:
-
Tại bà không biết nặn sữa, mới bị nó đá.
Người đàn bà đáp:
-
Không phải vậy đâu. Nếu nhà Vua ở chính thì Ngài Hiền Nhân sẽ ở lại
đây, nước nhà đâu có bị loạn lạc như vậy.
Đi một lát nữa đến khoảng đồng ruộng, nhà Vua thấy
một con chim đang mổ một con ếch. Con ếch lún vào bùn mắng rằng:
-
Phải chi mày mổ Vua một cái như thế, thì tao mới thích cho. Mày đừng mổ
tao.
Đạo Nhân bảo con ếch:
-
Ngươi bị con chim mổ, chứ đâu lỗi ở nhà Vua. Nhà Vua đâu có giữ hộ cho
ngươi được.
Con ếch đáp:
-
Tôi không muốn nhà Vua giữ hộ tôi đâu. Nhà Vua không ân nhuận. Việc
chính trị bất bình đẳng. Bỏ phế việc cúng tế, bỏ phế việc dẫn thuỷ nhập điền. Bởi
vậy, trời hạn nứt khô, thân tôi phải bày ra để cho con chim nó mổ đây nè.
Con ếch lại than:
-
Nếu nhà Vua biết chấp giữ quyền chính, thì bỏ một người ác, lợi cho một
nhà. Bỏ một nhà ác, lợi cho một làng. Rồi sẽ đến cảnh một xã hội, quốc gia
thịnh trị. Vua không biết chấp giữ quyền chính, nên nhân dân khắp sở, thiên hạ kêu
ca.
Liền đó, Đạo Nhân tâu Vua:
-
Xin Đại vương xét kỹ, trăm họ vô tội, khổ sở than khóc cảm động đến cả
quỷ thần, đến nỗi con ếch mà còn thốt lời như vậy, chắc Đại vương cũng đã thấy
rồi. Vậy xin hãy đuổi kẻ ác, để kiến thiết quốc gia lại trên nền tản thiện
chánh, để muôn dân hồi đầu trở lại. Tâu Đại vương, bây giờ bắt đầu gieo giống
lúa ở ruộng, gặp mưa thuận gió hoà, thì lo gì mùa màng không trúng.
Vua hỏi:
-
Vậy theo ý Ngài, thì nên giao phó trách nhiệm này cho ai?
-
Bệ hạ phải mau mời Ngài Hiền Nhân trở về, vì Ngài là người rõ biết thời
cơ, nếu trở về thì trong nước sẽ trở lại được bình an.
Nhà Vua cùng Đạo Nhân trở về cung, Ngài gọi một sứ
thần lên căn dặn:
-
Nhà ngươi hãy vì Trẫm vào núi rước Ngài Hiền Nhân về, và nếu Ngài không
về, ngươi sẽ thưa: Hoàng thượng nay đã tự biết ăn năn, muôn dân oán trách, nên
Hoàng thượng lo buồn không ăn ngủ được và đang mong mỏi Ngài về, xin Ngài mở
lòng nhân từ thương xót chúng sanh. Nói như thế, Ngài biết trong nước loạn lạc
và sẵn lòng thương xót, chắc sẽ trở về.
Sứ thần vâng mệnh ra đi,
trãi qua mấy hôm len lõi trong núi rừng, mới đến được chỗ Ngài Hiền Nhân ở. Sứ
thần cúi đầu làm lễ và thưa:
-
Kính bạch Ngài, nhà Vua ân cần, hết lòng cung kính, tự biết mình tội
lỗi quá nặng, làm sai ý thánh nhân, và để cho nước nhà loạn lạc, trăm họ cùng
khốn, nên đang mong mỏi Ngài trở về, nhà Vua khóc lóc, nghĩ nhớ đến Ngài, không
ăn không uống gì được cả. Cúi xin Ngài mở lòng thương xót nhà Vua một phen nữa,
kính thỉnh Ngài về.
Hiền Nhân nghe nói, thương
xót nhân dân, nên sửa soạn theo sứ giả trở về. Dọc đường thấy con khỉ chết khô,
Ngài liền lột hết da để làm toạ cụ. Nhân dân trong nước nghe Hiền Nhân đã trở
về đều ra tận biên giới nghênh tiếp và mời Ngài về lại Tịnh xá ngoài thành. Nhà
Vua mặc triều phục, ra đến tận Tịnh xá yết kiến, làm lễ Ngài. Sau khi hỏi han,
Vua ngồi lại một bên, vòng tay tạ tội, thưa với Hiền Nhân:
-
Trẫm vì sơ xót, suy nghĩ không đến nơi đến chốn, nên làm hại nhân dân
trăm họ oán trách, nay Trẫm một lòng chí thành cầu sám hối, xin Ngài tha thứ
cho Trẫm bao nhiêu tội lỗi lầm lạc.
Hiền Nhân đáp lễ:
-
Người có tội mà biết sám hối là hay lắm.
Rồi thấy bốn quan cận thần,
kề tai nói nhỏ, thầm thì với nhau. Hiền Nhân bảo:
-
Các ngươi là người vô tội, sao không nói chuyện công nhiên, cần gì phải
nói to, nói nhỏ.
Bốn quan cận thần nổi giận:
-
Ông làm sa môn, lòng những mong mỏi phước trời, người người gọi ông là
ông Hiền, lẽ ra ông không nên giết con khỉ mà lột da như vậy.
-
Các người mê hoặc lấy mình, không phân biệt cái gì là chân chính, không
phân biệt cái gì là tà nguỵ. Các người làm việc ác đức, cái đó Trời Phật đã
biết rằng khổ vui đều có trong luật Nhân - Quả không thể tránh được. Làm việc
ác, tội ác sẽ theo đòi. Làm việc lành quả báo tốt sẽ đền trả, trọn đời không
mất. Hoạ - Phúc tự mình. Kẻ ngu tưởng đâu là xa cách. Bọn ngươi lấy việc ta lột
da mà nạn rằng ta giết khỉ, điều ấy có giống việc gian ác, giết hại của các
ngươi không? Lại cứ nói mạng tại trời, làm lành không phước, làm ác không hoạ.
Phải biết hoạ phước rõ ràng, như âm vang theo tiếng, bóng theo hình, chứ không
phải hoạ phước từ trên trời rơi xuống. Các ngươi làm ác mà không tự biết, muốn
che giấu, nhưng nào có giấu được, lại lấy sự chê bai ta, mà cho là đắc sách.
Trong bọn ngươi há chẳng có một người nói rằng: Hễ người chết thì phần hồn tiêu
diệt không sanh trở lại nữa. Lời nói ấy có phải là lời của bậc thánh nhân chăng,
hay là tự ý ngu muội của các ngươi bịa đặt ra. Các ngươi muốn làm chuyện ác rồi
trở lại bảo rằng làm ác không tai hoạ, làm lành không được phước. Đó có phải là
lời nói gạt người, để che đậy tội lỗi của mình không? - Kìa hiện tượng của vũ
trụ rõ ràng, kia Nhật Nguyêt và tinh tú đó, các ngươi bảo là ai tạo ra nó vậy.
Bốn quan cận thần nghe nói, làm thinh không còn biết
trả lời sao nữa.
Hiền Nhân tiếp:
-
Tất cả hiện tượng trong vũ trụ đều do nghiệp lực tội phước, làm lành
làm ác, đều có quả báo như bóng theo hình. Người chết bỏ xác thân nhưng không
bỏ được nghiệp hành. Gieo giống, tuy hạt lúa thối mục dưới đất, nhưng sau này
sẽ sanh ra nhánh lá và kết hạt trên ngọn. Thắp đèn, tim dần dần lùn, nhưng lửa
vẫn đỏ mãi. Hành nghiệp tội phước vẫn còn luôn luôn như người thắp đèn viết
thơ, rồi tắt đèn nhưng chữ vẫn còn. Hồn thần tuỳ hạnh nghiệp chuyển sinh đời
khác, không hề gián đoạn. Các ngươi làm ác mà tự cho là cao cả, cũng như người
giết cha mẹ mà lại có thể cho là vô tội sao?
Bốn quan đáp:
-
Một nhánh cây còn không nên hái lá của nó thay, huống chi giết cha mẹ
mà cho là vô tội!
Hiền Nhân đáp:
-
Và bọn ngươi nạn ta, nhưng chính thực là ta lột lấy da con khỉ chết. Vì
khỉ chết, chứ nào ta có giết nó mà lột da. Còn bọn ngươi vu oan cho người, tội
ác đó sẽ tính thế nào? Huống chi lại còn chủ trương tà quấy, bề ngoài giả là
làm lành mà bên trong lại ẩn khuất làm việc gian ác. Cũng như vàng giả, bề
ngoài thì nước vàng, mà trong thì toàn đồng. Bề ngoài diện mạo tốt đẹp, mà
trong thâm tâm toàn là xàm tặc. Thiệt chẳng khác gì chó sói lạc vào bầy dê, ngấm
ngầm ăn hết bầy dê, mà người giữ dê không hề hay biết. Kẻ ác trong đời lắm khi
cũng tự xưng đạo đức, giả khổ hạnh, cùng diễn giải kinh giới, nhưng bên trong
chuyên hành tà xiểm, dối trá để cầu mong danh lợi. Người ngu không biết quay về
tin phục, rồi như nước sông ngập lụt chảy tràn đầy dẫy, chưa kịp rút về bể cả,
làm hại biết bao nhiêu người. Chỉ có bậc thánh nhân mới có thể cứu giúp thiên
hạ, cải bỏ ác tục, sửa sang việc lành, ai ai cũng đều nhờ cậy, nếu cho làm lành
không phước, làm ác vô hại, thì các bậc cổ thánh để lại bao nhiêu kinh điển làm
chi và truyền trao gươm báu cho vua làm chi. Hành nghiệp đều có quả báo rõ
ràng. Làm dữ bị tai hoạ, mọi người đều ghét. Không mau thì lâu, tai hoạ ấy sẽ
đến. Làm việc ân đức, tuy ẩn kín nhưng sau này sẽ bày ra và phước quả sẽ đem
lại cho mình. Vậy nên trong nước có Vua, Vua phải thuận theo phép đạo. Uỷ nhiệm
vụ cho người hiền, phó thác việc làm cho kẻ tài trí, ban thưởng người lành,
trừng phạt người gian ác. Bánh xe lăn tròn không ngừng. Hành nghiệp cứ tuỳ theo
đấy thọ sinh về nơi lành nơi giữ. Phải tin chắc có tội phước, đừng làm điều
gian dối. Phải hết sức cẩn thận lánh xa những kẻ ác và biết ăn năn tội lỗi. Nếu
mọi người đều lành thì bản tánh và quả báo sẽ đều lành đẹp giống nhau. Song, vì
người làm ác rất nhiều nên nhân quả bất đồng. Kẻ sống lâu người chết yểu, kẻ
nhiều bịnh người ít bịnh, kẻ xấu xa người tốt đẹp, kẻ nghèo hèn người giàu
sang. Kìa, những người ngu, đui, điếc, câm, ngọng, kẻ mù què tàn tật, trăm điều
đều do đời trước gây ác nhân mà nay gặp lấy ác quả. Còn đức độ trung chính,
hiền từ nên là trí tuệ, đế vương, hào phú và muôn sự hạnh phúc. Như thế là nhân
quả rõ ràng. Sao lại bảo rằng không! Xin hãy suy nghĩ kỹ càng, đừng lạc lầm vào
tà đạo.
Hiền Nhân giảng xong, Vua
cùng quần thần và tất cả nhân dân không một ai là không hiểu rõ và vui mừng.
Hiền Nhân lại nói tiếp:
-
Và nay, Hiền Nhân này xin nói một sự tích: Thuở xưa, có một ông Vua tên
là Cẩu Lạp, có một cái ao, trong ấy, nuôi nhiều thứ cá ngọt, vì cá ngọt ít
xương mà ngon lắm, nên nhà Vua cử một quan giám ngư (quan xem cá) để giữ gìn ao
cá. Mỗi ngày dâng Vua tám con, nhưng quan giám ngư, mỗi ngày cũng ăn chùng, ăn
lén mất tám con. Vua biết cá mất, nên cử tám quan giám ngư nữa để cùng nhau giữ
gìn ao cá. Xong, tám vị quan giám ngư tùng đảng với nhau, mỗi ngày, mỗi người
đều ăn lén hết tám con. Té ra, người giữ cá nhiều chừng nào thì cá lại mất
nhiều chừng ấy. Nay, Bệ hạ đây cũng vậy, giao nhiệm vụ cho nhiều người, thì
nước nhà càng thêm rối loạn, cũng như kẻ hái trái non, ăn đã không có mùi vị
gì, mà lại làm mất giống. Vua trị nước mà không dùng kẻ hiền, đã thiệt hại cho
dân, mà sau này tiếng tăm cũng mất và phước phần đều không. Trị nước bất chính
làm cho thiên hạ có tâm tranh đoạt, cũng như muốn sửa sang và hưng nghiệp gia
sản mà không chịu để tâm, dụng chi thì của cải mỗi ngày mỗi hao bớt đi. Nước có
tướng giỏi binh nhiều mà không chịu tập dượt chiến trận, không lo lắng kiến
thiết nước nhà thì nước ấy sẽ bị hèn yếu. Làm Vua không kính đạo đức, không tôn
thờ bậc cao, thì hiện tại không người giúp đỡ và tương lai không gặp được phước
lành. Hằng ngày giết hại muôn họ kêu ca, thì tai hại thường xảy ra tới tấp,
chết đi để tiếng xấu muôn đời. Theo chính pháp, trị dân thì được lòng người.
Kính thờ bậc tôn trưởng, yêu mến trẻ thơ, hiếu thuận cha mẹ, vâng làm việc lành
thì hiện tại an ổn và lai sinh thọ phước. Làm việc trung chính, cũng như đi
thẳng đường, lấy việc trung chính làm cội gốc thì mọi người đều khâm phục, như
thế sẽ gây được hạnh phúc thái bình, lại phải sáng suốt lượm lặt những lời xưa,
để làm kinh nghiệm cho đời này. Động tịnh cho biết thời. Ân oai cho có lý. Ban
bố ân huệ cho nhân dân, bố thí nên bình đẳng. Được như thế thì đời này sẽ an ổn
vui vẻ. Sau này sẽ quyết tu chứng đạo giác ngộ.
Chúng hội nghe Ngài Hiền
Nhân dạy đều vui mừng vô tay khen ngợi. Nhà Vua liền đứng dậy cúi đầu thưa
rằng:
-
Nay Trẫm được nghe lời Ngài dạy, cũng như cơn gió mạnh thổi tan mây mù,
vậy xin Ngài mở lòng từ bi, nghĩ đến quốc gia, dạy bảo quốc dân và giúp đỡ Trẫm
trị dân như trước.
Hiền Nhân liền đứng dậy theo
Vua về cung cùng luận bàn chính sự. Bốn quan cận thần rồi sau bị đuổi. Hiền
Nhân giúp nước, ân huệ thấm nhuần, gió mưa hiệp thời, mùa màng rất trúng. Nhân dân
đều vui vẻ, bốn biển một nhà. Trên dưới hoà thuận, đều chung sức gây lại một
cuộc thái bình, thạnh trị.
---o0o---
Đức Phật ngừng lại một lát, Ngài nhìn đại chúng và
tiếp:
-
Này các ngươi, Hiền Nhân đời ấy có phải ai đâu lạ, chính là ta đây. Còn
Đạo Nhân, cháu Người là A Nan đây. Vua Lâm Đạt thuở ấy chính là Vua Ty Tiên Nặc
này đây, Hoàng hậu đó là nàng Tôn Đà Lỵ, con chó Tân kỳ là Sa Nặc, bốn quan cận
thần lúc ấy là bốn kẻ ngoại đạo giết nàng Tôn Đà Lỵ ngày nay và sau cùng, con
ếch hồi đó là ông Âu Đà Da, đã chứng quả A La Hán đang đứng kia. Các ngươi phải
biết rằng, theo đạo Bồ đề, ta đã thực hành trong nhiều kiếp, làm lành chịu khổ,
tích công luỹ đức từ vô lượng kiếp số. Nay, vì chúng sinh thành Phật cứu độ và
bổn nguyện nay đã thành tựu. Này các ngươi, các ngươi nghe kinh này rồi, phải
siêng năng tinh tấn, tu hành và vâng làm theo các điều lành, đừng giẫy đẫy
biếng nhác, nghe không?
----o0o----
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét