Phần I
1. Vô Ngã hay Danh
Vua Di Lan Ðà ngự đến chùa San khế đa (Sankheyya), chỗ
đại đức Na Tiên bây giờ đang tạm trú với tám chục tỳ kheo, ông tiến đến trước
mặt Ðại đức và cung kính vái chào. Ðại đức đáp lễ. Sau lễ tương kiến, nhà vua
cung kính ngồi né một bên.
Ðoạn, vua khởi chuyện hỏi rằng:
-
Xin Ðại vương cứ
phán hỏi, bần tăng xin nghe.
-
Bạch Ðại đức, quý
danh là gì?
-
Người ta gọi bần
tăng là Na Tiên. Các pháp hữu của bần tăng cũng gọi bần tăng bằng tên ấy. Nhưng
dù cho cha mẹ bần tăng có đặt cho bần tăng tên Na Tiên (Nagasena) hay một tên
nào khác, chẳng hạn như Duy Tiên (Viranasena), Thủ La Tiên (Surasena) hoặc Duy
Ca Tiên (Sihasena)..., thì chẳng qua cũng chỉ là những tên suông, đặt ra để
phân biệt người nọ với người kia mà thôi. Trong những cái tên đó không hề có
cái "ta" hay cái "của ta" như tà kiến và ngã chấp thường
lầm nhận.
-
Nhà vua kinh ngạc
quay sang đám tùy tùng hộ vệ và chư vị tỳ kheo trong chùa để phân bua:
-
Này năm trăm quan
chức và tám chục tỳ kheo! Tất cả quý vị hãy ghi nhớ lời nói của Ðại đức Na Tiên
hôm nay. Ngài nói: Tên là do cha mẹ đặt ra và bạn hữu dùng để gọi, chứ trong đó
không có cái "ta". Như vậy trẫm có thể tin được lời ngài chăng?
Phân
bua xong, nhà vua quay lại hỏi Ðại đức Na Tiên rằng:
-
Bạch Ðại đức! Nếu
không có cái "ta" trong đó thì khi tín thí cúng dường y bát, vật
thực, phòng xá, thuốc men, dụng cụ..., ai thâu nhận các món cúng dường ấy? Ai
bảo tồn luân lý, đạo nghĩa? Ai tham thiền nhập định? Ai hành đạo, đắc quả và
nhập niết bàn? Nếu không có cái "ta" trong người thì ai giữ giới? Ai
phạm giới? Ai sát sanh? Ai trộm cướp? Ai hành dâm? Ai nói dối? Ai say sưa? Nếu
quả như vậy thì không ai tạo nghiệp lành, cũng chẳng ai tạo nghiệp dữ. Luôn cả
nghiệp lành dữ cũng không có. Những việc làm lành hay làm dữ không có quả báo
gì hết. Bạch Ðại đức, như thế thì nếu có kẻ giết Ðại đức cũng không phạm tội
sát sanh chăng? Và trong chư tăng, không có ai là giáo thọ giảng dạy, chẳng có
ai là hòa thượng truyền giới thu nhận đệ tử tu lên bậc trên? Ngay các pháp hữu
của Ðại đức gọi Ðại đức là Na Tiên cũng không có nốt? Và cái tên Na Tiên đó là
ai? Kính mong Ðại đức giải cho trẫm được biết. Thưa Ðại đức đã nghe rõ rồi chứ?
-
Bạch Ðại đức, nãy
giờ trẫm gạn hỏi tường tận về 32 thể trược, 5 uẩn và 18 giới có phải là Na Tiên
không, hết thảy đều bị Ðại đức phủ nhận. Theo lời dạy bảo của Ðại đức, trẫm
quán tưởng cũng thấy rằng trong từng cái nêu hỏi đều không có Na Tiên, và Na
Tiên cũng không có trong tất cả những cái đó hợp lại, Na Tiên chỉ là cái danh
suông. Như vậy trong đoạn trước, Ðại đức bảo với trẫm rằng người ta gọi Ðại đức
là Na Tiên, như thế là Ðại đức đã nói dối, chứ thật ra không có Na Tiên. Này
năm trăm quan chức và tám chục tỳ kheo! Xin các vị hãy làm chứng cho.
Bấy
giờ, Ðại đức Na Tiên chậm rãi tâu lại nhà Vua rằng:
-
Tâu Ðại vương,
Ðại vương thật là một bậc đế vương thanh nhã, hưởng nhiều phước báo an vui.
Nhưng trên con đường từ hoàng cung đến chùa nầy, chắc hẳn vì gặp lúc khí trời
oi bức, Ðại vương thấy trong người khó chịu, ngọc thể bất an, nên tâm trí Ðại
vương có phần nóng nảy kém thanh tịnh. Chẳng hay Ðại vương đến đây bằng bộ hay
bằng xe?
-
Bạch Ðại đức, Trẫm
đến bằng xe. Chỉ khi tiến vào đây, Trẫm mới đi chân.
Nghe nhà Vua nói xong, Ðại đức Na Tiên hướng về đám
tùy tùng hộ vệ của nhà Vua mà phân bua rằng:
-
Này năm trăm quan
chức! Xin quý vị hãy ghi nhớ lời nói của nhà Vua, Ngài bảo rằng đến đây bằng
xe. Xin quý vị hãy nhớ và làm chứng cho.
Phân chứng cớ xong, Na Tiên quay lại hỏi nhà Vua:
-
Tâu Ðại vương,
Ðại vương bảo rằng ngài ngự đến bằng xe. Ðó là ngài nói thật chứ?
-
Bạch Ðại đức, Trẫm
nói chắc thật.
-
Vậy xin Ðại
vương cho bần tăng biết rõ về cái xe. Gọng có phải là xe không?
-
Thưa, không phải.
-
Trục có phải là
xe không?
-
Thưa, không phải.
-
Bánh có phải là
xe không?
-
Thưa, không phải.
-
Căm có phải là xe
không?
-
Thưa, không phải.
-
Thùng có phải là
xe không?
-
Thưa, không phải.
-
Ách có phải là xe
không?
-
Thưa, không phải.
-
Chỗ gác chân có
phải là xe không?
-
Thưa, không phải.
-
Mui có phải là xe
không?
-
Thưa, không phải.
-
Dây cương có phải
là xe không?
-
Thưa, không phải.
-
Hay cây roi là
xe?
-
Thưa, không phải.
-
Hay tất cả các
món ấy họp lại và buộc chung với nhau là xe?
-
Thưa, không phải.
-
Hay ngoài các món
ấy ra còn có một món nào khác gọi là xe?
-
Thưa cũng không
phải.
-
Hay tiếng khua
động là xe?
-
Thưa, cũng không
phải nốt.
-
Vậy chớ xe là cái
gì?
Nhà Vua lặng thinh, không trả lời.
Ðại đức Na Tiên dừng nghỉ một lát, rồi tâu rằng:
-
Tâu Ðại vương!
Nãy giờ bần tăng đã gạn hỏi tường tận về từng món một như gọng, mui, thùng...
có phải là xe không, hết thảy đều bị Ðại vương phủ nhận. Theo lời phán bảo của
Ðại vương, bần tăng quả thật cũng thấy rằng trong từng món nêu hỏi đều không có
xe, và xe cũng không có trong tất cả những món đó họp lại; xe chỉ là cái danh
suông. Như vậy, khi Ðại vương nói với bần tăng rằng Ðại vương đến đây bằng xe,
điều đó tưởng e đáng ngờ vực lắm. Ðại vương là một vị đại hoàng đế cao cả, làm
chủ một vùng đất nước mênh mông, thật hẳn không đáng lại đây để nói những lời
luống dối như thế. Này năm trăm quan chức! Xin quý vị hãy làm chứng cho.
Thấy nhà Vua ngồi câm nín và các quan chức thì tỏ lòng
tán dương bằng nhiều cách khác nhau, Ðại đức Na Tiên bèn từ hòa tâu với nhà Vua
rằng:
-
Trong kinh, Phật
có dạy như vầy: "Hiệp các món gọng, thùng, bánh, mui... theo một mẫu mực
nào đó thì thành một cái mà người ta tạm gọi là xe. Cũng như thế, hiệp tất cả
đầu, mặt, tay, chân, hơi thở, lời nói, sự khổ, sự vui, điều lành, điều dữ...
thì cũng thành một đơn vị mà người ta tạm gọi là cái "ta" để tiện bề
phân biệt. Chứ thật ra thì không có cái "ta" chơn thật nào cả! Ðúng
như lời của nữ tôn giả Hoa Si Ra (Vajirã) đã bạch với Ðức Thế Tôn khi Ngài còn
tại thế: "Danh xưng xe sở dĩ có là do nhiều món đồ hợp lại là vẽ thành.
Nhiều món cơ thể vẽ thành một vật mệnh danh là chúng sanh".
Vua Di Lan Ðà nghe đến đây, lấy làm hoan hỷ, cực lực
tán thán Ðại đức Na Tiên:
-
Hay thay! Hay
thay! Chớ chi Ðức Phật còn tại thế thì hẳn. Ngài phải khen ngợi Ðại đức lắm.
Ghi chú:
(1) Sắc: Sắc chất cấu tạo nên cơ thể con
người nói riêng, loài hữu tình nói chung.
(2) Thọ: Cảm thọ vui, khổ và không vui, không
khổ.
(3) Tưởng: Hình ảnh của ngoại giới hiện ra
trong tâm linh sau khi cảm thọ.
(4) Hành: Tạo tác của các hình ảnh ấy trong
tâm linh.
(5) Thức: Phân biệt và nhận biết sự vật
Năm yếu tố trên đây gọi chung là Ngũ uẩn (năm
cái chứa nhóm) trong đó Thọ, Tưởng và Hành gọi là Danh, hợp với Sắc thành Danh
Sắc và có tác dụng là Thức.
(6) Nhãn căn là con mắt thịt. Nhãn căn, Nhĩ
căn... gọi là sáu Căn. Sáu Căn tiếp xúc với sáu Trần (Sắc, Thanh...) phát khởi
sáu tác dụng nhận biết gọi là sáu Thức (Nhãn thức, Nhĩ thức...) Sáu Căn, sáu
Trần, sáu Thức gọi chung là 18 giới (dhatu).
Ðứng về mặt pháp tướng, ngoài cách phân tích
con người thành năm uẩn, một cách phân tích khác chi li hơn là cách phân tích
thành 18 giới; nghĩa là 18 phạm trù riêng biệt và sai khác nhau.
Hỏi về cái Ta, Vua Di Lan Ðà bắt đầu từ những
hình tướng cụ thể như tóc, lông... dần dần đi sâu vào giáo nghĩa và đề cập đến
năm Uẩn, mười hai Xứ, mười tám Giới.
2. Danh số
Sau khi đã được Na Tiên giải đáp về Danh (vì Ngã chỉ
là cái Danh suông), vua Di Lan Ðà bèn hỏi về Số:
-
Bạch Ðại đức, nhà
vua hỏi, Ðại đức tu hành trải bao nhiêu hạ lạp rồi?
-
Thưa đã bảy hạ
lạp rồi.
-
Nói bảy hạ là đếm
luôn cả Ðại đức vào trong đó, hay chỉ đếm riêng hạ không mà thôi? Con số bảy là
con số của Ðại đức hay con số của hạ?
Trong lúc nhà vua đặt câu hỏi nầy thì bóng ông đương
rọi vào ché nước bên cạnh long sàng và hiện ra rõ ràng với chiếc long bào oai
nghiêm có đính đầy đồ trang sức rực rỡ. Na Tiên liền nắm lấy dữ kiện ấy mà hỏi
ngược lại nhà vua rằng:
-
Tâu Ðại vương,
cái bóng đương hiện ra trong ché nước kia là Ðại vương hay cái long thể đương
đối diện với bần tăng là Ðại vương?
-
Bạch Ðại đức,
chính trẫm mới là Ðại vương, cái bóng kia chỉ nương nơi trẫm mà có. Nó có là
bởi nơi trẫm.
-
Cũng như thế đó,
xin tâu Ðại vương rõ, chính số hạ mới là bảy, chứ không phải bần tăng là bảy.
Nhưng số bảy ấy là nương nơi bần tăng mà có. Nó có bởi nơi bần tăng.
-
Hay thay, quả
thật đúng như vậy.
3. Cách nói chuyện của hiền giả và vương giả
hay điều kiện đối thoại.
Sau hai câu hỏi khai đề Danh và Số, đến đây Di Lan Ðà
đi thẳng vào đối tượng chính của cuộc thảo luận. Vua hỏi:
-
Bạch Ðại đức,
trẫm muốn hầu chuyện với Ðại đức về những điểm khó trong kinh điển và về đạo lý
nói chung, chẳng hay tôn ý có hoan hỷ doãn nặc cho chăng?
-
Tâu Ðại vương,
nếu Ðại vương đứng trên tư thế của một hiền giả mà nói chuyện (Panditavàda) thì
bần tăng xin vui lòng đối đáp. Còn nếu Ðại vương đứng trên tư thế của một vương
giả mà nói chuyện (Ràjavàda) thì bần tăng sẽ không có gì để đối đáp lại hết. (Ý
nói: không thể có đối thoại trong điều kiện như thế)
-
Ðứng trên tư thế
của một hiền giả mà nói chuyện là thế nào?
-
Tâu Ðại vương,
hiền giả trong khi nói chuyện thì vừa tự dò xét lấy mình lại vừa soi sáng cho
kẻ đối thoại một cách nhiệt thành. Trong câu chuyện dù đối phương viện dẫn
những lý lẽ hoặc đúng hoặc không đúng, hoặc cao hoặc thấp, hiền giả vẫn không
bao giờ móng tâm buồn giận bứt rứt, không hề lấy việc thắng bại làm điều và tự
biết rằng trong đó ai cao trỗi hơn, ai có trí tuệ nhiều hơn. Nếu gặp phải một
đối tượng quắc thước già giặn và có tài hùng biện, hiền giả cũng không vì thế
mà tìm đường cản ngăn hay áp đảo bằng cách đuổi kẻ kia ra khỏi chỗ ngồi hoặc
dùng xảo thuật luận lý mở trói, trói mở để thủ thắng cho kỳ được. Tâu Ðại
vương, đó là cách nói chuyện của hiền giả.
-
Còn đứng trên tư
thế của một vương giả mà nói chuyện là thế nào?
-
Tâu Ðại vương,
vương giả trong khi nói chuyện thì thường thường hay dùng quyền thế mà áp đảo
kẻ đối thoại, buộc kẻ kia phải chấp nhận quan điểm một chiều của mình. Nếu kẻ
kia bất tuân, dám phát biểu ý kiến đối nghịch, thì các ngài chẳng ngại ngùng gì
mà chẳng giáng chỉ bắt tội và hình phạt để nêu cao uy quyền riêng của mình, bất
chấp lẽ phải và công bằng tối thiểu đối với người. Quyền uy mà các ngài hằng
ngày thường sử dụng, tiêm nhiễm lâu năm thành thói quen, khiến các ngài chỉ
muốn lấn lướt kẻ khác và không chịu để ai lấn lướt mình trong bất cứ trường hợp
nào. Các ngài luôn luôn bị ám ảnh bởi lòng tự cao, tự đại gắn liền với quyền
uy, nên chẳng nhận ra sự hơn kém trong lý lẽ viện dẫn của mỗi bên để làm sáng
tỏ nội dung câu chuyện đương thảo luận. Chính cái thái độ trịch thượng, một
chiều, điên rồ và nguy hiểm ấy đã là nguyên nhân bít lối đối thoại giữa đôi
bên, chặt cầu thông cảm giữa đôi bờ. Tâu Ðại vương, đó là cách nói chuyện của
vương giả.
-
Bạch Ðại đức, xin
Ðại đức chớ ngại. Trẫm sẽ cố gắng học đòi hiền giả và đứng trên tư thế nầy mà
hầu chuyện với Ðại đức. Và cũng xin Ðại đức đừng có ý nghĩ rằng Ðại đức đương
đối diện với một vương giả mà tiếp chuyện. Xin ngài cứ nói một cách tự nhiên
như hằng ngày ngài vẫn thuyết giảng cho tỳ kheo, tỳ kheo ni, sa di, sa di ni,
ưu bà tắc hay ưu bà di nghe. Chúng ta có bổn phận phải soi sáng cho nhau. Ngài
nên vững tâm, chớ e ngại gì hết. Không quấy lỗi gì đâu.
-
Tâu Ðại vương,
những lời Ðại vương vừa phán rất hay và rất đúng. Ðược như thế, bần tăng mới có
thể giải đáp thoải mái những câu hỏi đạo của Ðại vương được.
-
Bạch Ðại đức, vậy
Trẫm xin hỏi một câu.
-
Ðại vương hỏi đi.
-
Trẫm đã hỏi rồi.
-
Bần tăng đã đáp
rồi.
-
Ðại đức đáp thế
nào?
-
Ðại vương hỏi thế
nào?
-
Trẫm không hỏi gì
hết.
-
Bần tăng không
đáp gì hết.
Vua
Di Lan Ðà đặt câu hỏi như thế nầy là cốt để thử trí tuệ và tài hùng biện của
Ðại đức Na Tiên đó thôi. Kỳ thật, câu hỏi nầy đã được nhà vua hỏi rồi trong
đoạn trước.
4. Di Lan Ðà thỉnh Na Tiên vào hoàng cung
Bấy giờ, nhà vua thầm nghĩ rằng: "Vị Sa môn nầy
quả thật là bậc thông minh có trí tuệ siêu việt. Ta còn nhiều điều dự định đem
ra hỏi ngài. Hôm nay, trời sắp tối rồi, mai ta sẽ cho triệu thỉnh ngài vào
hoàng cung, chừng đó mặc tình mà đối đáp."
Nghĩ
như thế rồi, nhà vua liền phán bảo cận thần là Ðờ Va Mang Ti Da (Devamantiya)
(1) thăm dò riêng ý kiến của Na Tiên xem ngài có thuận tình không. Na Tiên
khứng nhận. Nhà vua bèn rời khỏi chổ ngồi, chấp tay chào tạm biệt Na Tiên, rồi
nhảy lên lưng tuấn mã mà trở về hoàng cung. Trên đường về, nhà vua như tuồng bị
ám ảnh bởi hình bóng Na Tiên, cứ tơ tưởng vẫn vơ đến con người kỳ tài ấy mãi,
không sao lắng quên được. Có lúc nhà vua thốt lên thành lời: "Na Tiên, Na
Tiên... toàn tài!"
Sáng
hôm sau, lúc mặt trời vừa mọc thì các đại thần Ðờ Va Măng Ti Da, A Năng Ta Ca
Da (Anantakàya), Nơ Mít Ti Da (Nemittiya), Sa Ba Ði Na (Sapkadinna)... đến chầu
vua và tâu rằng:
-
Có nên đi rước Na
Tiên chăng?
-
Nên lắm, vua
phán.
-
Thỉnh ngài với
bao nhiêu Tỳ Kheo tăng tháp tùng?
-
Bao nhiêu cũng
được. Việc ấy tùy ngài định đoạt.
Lúc ấy, Sa Ba Ði Na là quan giữ kho, tiến lên tâu
rằng:
-
Xin thỉnh Na Tiên
với mười vị Sa môn là đủ rồi.
-
Hãy cứ để Na Tiên
tự do muốn mang theo bao nhiêu tùy ý, Vua phán.
Sa Ba Ði Na ba lần tâu. Nhà vua ba lần từ chối. Cuối
cùng nhà vua nổi giận phán rằng:
-
Nhà ngươi thật là
người keo lẫn không ai bằng. Hèn chi tên nhà ngươi là Sa Ba Ði Na! ("Sa
ba đi na" nghĩa là keo lẫn). Ngươi tiếc của của nhà vua một cách thái
quá. Nếu là của riêng của ngươi, ngươi còn tiếc đến bực nào? Vật thực ở trong
hoàng cung có nhiều. Làm đến bực đế vương như trẫm mà không nuôi nổi tất cả chư
vị Sa môn hay sao?
Sa Ba Ði Na nghe vua quỡ mắng, tự lấy làm hổ thẹn, chẳng
dám thốt ra lời. Trong khi đó, Ðờ Măng Ti Da, A Năng Ta Ca Da với các vị thần
khác cùng nhau đi đến chỗ ở của Na Tiên để cung thỉnh ngài vào hoàng cung.
Na Tiên hỏi:
-
Tôn ý đức vua
muốn bần tăng đến với bao nhiêu Sa môn?
-
Bạch Ðại đức, đến
với bao nhiêu cũng được.
Na Tiên bấy giờ đã chuẩn bị xong, mình choàng cà sa,
tay ôm bình bát, cùng đi vào thành Sá Kiệt (Sakàla) với 80 vị tỳ kheo tháp
tùng.
Dọc đường, A Năng Ta Ca Da đi hộ vệ cạnh Na Tiên để
lân la hỏi đạo, bèn bạch rằng:
-
Bạch Ðại đức, hôm
qua ngài có nói với đức vua rằng ngài tên là Na Tiên; sau đó ngài phủ quyết lại
rằng không có Na Tiên. Vậy chớ ai là Na Tiên? Cái gì là Na Tiên?
-
Theo ông nghĩ cái
gì là Na Tiên?
-
Theo tôi nghĩ,
hơi thở tức mạng khí có vô có ra, chính đó là Na Tiên. Vì nhờ hơi thở đó mà
sanh mạng được duy trì.
-
Nếu hơi thở kia
có ra mà không có vô thì người có hơi thở ấy có sống không?
-
Người ấy chắc
chắn phải chết.
-
Hơi thở của người
thổi kèn, thổi sáo, hay thổi ống bễ thợ rèn, hơi thở đó ra rồi có trở vô không?
-
Thưa không.
-
Thế thì những
người ấy sống hay chết?
A Năng Ta Ca Da sửng sờ ngơ ngác không biết nói sao.
Giây lâu mới bạch lại rằng:
-
Bạch Ðại đức, trí
tuệ của Ðại đức thật là siêu việt. Tôi không đủ thông minh để hiểu thấu. Xin
Ðại đức khai thị giúp cho.
-
Này Ðại quan, hơi
thở chẳng qua cũng chỉ là một phần việc trong nhiều phần việc của thân thể mà
thôi. Cũng như phần việc của cái lưỡi là nói ra những điều gì mình suy nghĩ,
mình cảm hay phần việc của cái ý là suy tư những điều gì xúc,... Mỗi bộ phận
trong cơ thể đều có phần việc của nó. Ðó là điều được mệnh danh là "thân
hành" hằng trú trong năm uẩn, nhất là trong Sắc uẩn. Phân tách các
hành tướng của thân hành thì thấy toàn là trống không, vì vậy mà nói rằng:
Không có Na Tiên.
A Năng Ta Ca Da nghe Na Tiên giảng giải, tâm ý dần
sáng tỏ và thông suốt. Ông bèn xin thọ trì năm giới và trở thành tín đồ Ưu bà
tắc.
Ghi chú:
(1) Bản Hán dịch phiên âm là Triêm Di Lỵ Vọng
Quần, và còn gọi là Triêm Di Lỵ .
5. Cứu cánh đích thực của bậc xuất gia
Sau buổi trai tăng thịnh soạn do nhà vua cúng dường
toàn thể chúng tăng, nhà vua yêu cầu Na Tiên lưu lại 10 vị cùng ngồi dự đàm,
còn bao nhiêu xin mời trở lui về chùa an nghỉ. Nhà vua cũng truyền bảo tất cả
cung phi mỹ nữ rời khỏi hậu cung, tiến vào ngự điện, ngồi nép sau rèm mà nghe vua
luận đạo với Na Tiên.
Bãy giờ, vua cho thiết ngai ngồi trước mặt Na Tiên,
rồi lên tiếng hỏi:
-
Bây giờ nên luận
đàm về vấn đề gì đây?
-
Vấn đề gì mà nhà
vua cho là chánh đáng hơn hết.
-
Bạch Ðại đức, chư
vị xuất gia cho điều gì là lành nhất trên đời nầy? Vì cớ gì các ngài xuất gia
làm Sa môn?
-
Tâu Ðại vương,
anh em bần tăng chúng tôi sở dĩ xuất gia làm Sa môn là vì muốn thoát khỏi khổ
não trong đời hiện tại, lại cũng không muốn vướng mắc khổ não trong đời vị lai.
-
Hết thảy Sa môn
đều như thế cả hay sao?
-
Không hẳn như
thế. Sa môn có bốn hạng. Có kẻ vì mang công mắc nợ mà làm Sa môn. Có kẻ vì sợ
luật vua, phép nước mà làm Sa môn. Có kẻ vì nghèo túng khốn cùng mà làm Sa môn.
Ở đây bần tăng chỉ muốn nói đến hạng thứ tư, tức hạng muốn thoát khỏi khổ não,
ái dục, tiêu diệt khổ lụy trong đời nầy và đời sau, chí tâm cầu đạo mà xuất gia
làm Sa môn.
-
Nói vậy thì Ðại
đức chính vì mục đích ấy mà làm Sa môn chăng?
-
Hồi còn thơ ấu
nào có biết gì! Nhưng về sau dần dần nhờ thấu rõ đạo lý Phật dạy trong kinh,
lại nhờ có chư Sa môn trưởng lão giáo hóa mới thấy được mục đích của mình. Vì
vậy, bần tăng quyết tâm tiêu trừ mọi khổ não trong đời nầy và đời sau. Ðó là
mục đích của bần tăng.
-
Lành thay! Lành
thay!
6. Nguyên nhân luân hồi và phương pháp giải thoát
Vua hỏi:
-
Bạch Ðại đức, có
ai chết rồi mà không sanh trở lại không?
-
Tâu Ðại vương, có
kẻ sanh trở lại mà cũng có kẻ không sanh trở lại.
-
Những ai sanh trở
lại và những ai không sanh trở lại?
-
Ai còn nặng nợ
tham dục ái ân, kẻ đó còn sanh trở lại đời sau. Ai đã thoát khỏi vòng tham dục
ái ân, người đó không còn sanh trở lại nữa.
-
Bạch Ðại đức, kẻ
nào nhất tâm niệm chánh pháp có thoát khỏi luân hồi không?
-
Tâu Ðại vương,
nhất tâm niệm chánh pháp mà lại còn phải đạt được trí tuệ và các điều thiện
khác nữa thì mới thoát khỏi luân hồi.
-
Nhứt tâm và trí
tuệ có đồng nghĩa nhau không?
-
Không.
-
Gia súc như bò,
ngựa, chó, mèo... có trí tuệ không?
-
Chúng có nhứt tâm
nhưng không có trí tuệ.
-
Nhứt tâm và trí
tuệ khác nghĩa nhau như thế nào?
-
Nhứt tâm là định.
Có định mới hiểu biết. Trí tuệ là đoạn. Nhờ trí tuệ mà cắt đứt được phiền não
mê lầm và chất dứt luân hồi sanh tử.
-
Xin ví dụ cho Trẫm
dễ hiểu.
-
Ðại vương từng
thấy thợ gặt lúa chứ? Tay trái họ gom bụi lúa lại, trong khi đó thì tay mặt họ
cầm lưỡi hái mà cắt. Cũng giống như thế, nhà tu hành dùng nhứt tâm gom tư tưởng
lại và dùng lưỡi hái trí tuệ cắt đứt phiền não ái dục. Phiền não ái dục đã cắt
đứt thì vĩnh viễn không còn tái sanh. Luần hồi chấm dứt.
-
Hay thay! Hay
thay! Ví dụ của Ðại đức rõ lắm.
7. Pháp lành
Vua hỏi:
-
Bạch Ðại đức,
ngoài điều lành chánh đáng nhất đã nói, còn những điều lành nào khác đáng nói
nữa không? Và đó là những điều gì?
-
Tâu Ðại vương, đó
là: Tín tâm, Trì giới, Tinh tấn, Niệm thiện, Nhứt tâm và Trí tuệ (1).
a) Tín tâm
-
Tín tâm ra sao và
gồm những gì?
-
Tín tâm cởi mở
lòng ngờ vực. Có tín tâm thì mọi nghi nan ngần ngại mới tiêu tan. Như tin có
Phật; tin nơi kinh pháp; tin có tỳ kheo tăng; tin có đạo quả A La Hán; tin có
đời nầy và đời sau; tin phải ăn ở hiếu hạnh với cha mẹ; tin làm lành hưởng
phước và làm ác bị đọa. Nhờ có tín tâm như thế, người ta mới trở nên trong sạch
và tinh tấn mà lướt lên.
-
Trong sạch ra sao
và tinh tấn lướt lên như thế nào?
-
Trong sạch là xa
lìa và trừ khử năm điều ác: tham dâm, sân nộ, lười biếng ham ngủ, say mê ca
nhạc, nghi kỵ, không dám dấn thân. Hễ chưa diệt trừ được năm điều ác ấy thì tâm
ý luôn luôn bất định. Chỉ khi nào tận diệt được năm điều ác ấy, tâm ý mới trở
nên trong sạch không chút bợn nhơ.
-
Xin cho một ví dụ
cho dễ hiểu.
-
Ví như một vị đại
vương dắt một đoàn người ngựa xe cộ vượt qua một con rạch, nước rạch bị quậy
lên đục ngầu. Nhưng khi qua rạch rồi thì vua khát nước muốn uống. Giả sử bấy
giờ nhà vua có một viên ngọc Ðịnh Thủy Châu ném xuống, nước liền trở nên trong
và nhà vua có nước mà giải khát. Ấy, lòng người với năm điều ác nói trên cũng
như nước đục vậy. Ðệ tử Phật tự độ thoát ra khỏi vòng sanh tử bằng viên ngọc
Ðịnh Thủy Châu làm cho nước trong. Diệt được tội ác rồi thì tín tâm thanh tịnh
như viên ngọc sáng rỡ dưới ánh trăng rằm.
-
Lúc nãy, Ðại đức
có bảo rằng nhờ tín tâm mà tinh tấn lướt tới là như thế nào?
-
Ðệ tử Phật hàng
ngày chứng kiến hàng ngũ mình sách tấn nhau tu tập để trở nên thanh tịnh. Trong
số đó, có kẻ đắc quả Tu Ðà Hoàn, có kẻ đắc quả Tư Ðà Hàm, có kẻ đắc quả A Na
Hàm, có kẻ đắc quả A La Hán. Quả nào cũng nhờ tận lực vận dụng tín tâm, trừ khử
các mối ác trược dơ bẩn, mà thủ đắc. Nhân đó, các ngài bèn ra sức tinh tấn, cố
gắng xông lên mãi mãi để đạt đạo giải thoát.
-
Xin cho một ví dụ
để dễ hiểu.
-
Ví như khi trời
đổ mưa to, nước mưa theo triền núi chảy xuống, tràn ngập cả sông hồ ao rạch.
Một đoàn bộ hành trờ tới, ngại ngùng không biết nước nông sâu, dừng lại bên bờ
rạch chẳng dám băng qua để tiếp tục lộ trình đã dự định. Bổng có một người từ
phương xa đến. Người nầy ngắm thế rạch, độ được mực nước thấp cao tuỳ từng đoạn
nông sâu, rồi bình thản vượt qua rạch. Ðệ tử Phật cũng thế, thấy người đi trước
mình nhờ tâm thanh tịnh mà đắc quả Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán,
những kẻ đi sau bèn tinh tấn lướt tới để cùng đắc quả như nhau. Trong kinh,
Phật có dạy rằng: “Ai có tín tâm đều
có thể tự độ được ra khỏi luân hồi sanh tử. Ai có đủ nghị lực tự kềm chế lòng
mình, diệt trừ được ngũ dục, nhận chân được những nỗi đau khổ của tự thân thì
có thể tự giải thoát được. Và trên con đường giải thoát, phải dùng trí tuệ mà
mà thành tựu đạo đức của mình.”
b) Trì giới
Vua hỏi:
-
Bạch Ðại đức, còn
trì giới là như thế nào?
-
Tâu Ðại vương, là
giữ giới, vì giới là nền tảng của tất cả các pháp lành, gồm tóm trong ba mươi
bảy phẩm pháp.
-
Ba mươi bảy phẩm
pháp đó là gì?
-
Ðó là bốn Ý chỉ,
bốn Ý đoạn, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác ý, tám Ðạo hành. (2)
-
Bốn Ý chỉ ra sao
và gồm những gì? (3)
-
Là bốn điều ngưng
nghỉ khiến ý thôi vọng động. Phật dạy rằng: Một là quán tưởng thân bất tịnh thì
thân ngưng nghỉ. Hai là quán tưởng bệnh tật đau đớn thì bệnh tật ngưng nghỉ. Ba
là quán tưởng ý nghĩ vô thường thì ý nghĩ ngưng nghỉ. Bốn là quán tưởng các
pháp do duyên sanh thì các pháp ngưng nghỉ. Bốn ý chỉ là như vậy đó.
-
Còn bốn Ý đoạn?
(4)
-
Là bốn điều dứt
trừ. Ðạt được bốn điều ngừng nghỉ nói trên, không còn nhớ nghĩ đến nữa, vĩnh
viễn dứt trừ được chúng, như vậy gọi là Ý đoạn. Nhờ đoạn ý mà không còn phạm
tội lỗi mới, tiêu trừ được tội lỗi cũ, tập làm điều lành chưa làm, tăng trưởng
điều lành đã làm.
-
Còn bốn Thần túc?
-
Là bốn điều thông
suốt tận nguồn gốc. Một là mắt thấy suốt vạn vật. Hai là tai nghe suốt mọi âm
thanh. Ba là biết suốt tâm niệm kẻ khác. Bốn là thân bay lên được hư không. Bốn
Thần túc là như vậy đó.
-
Còn năm Căn?
-
Là năm điều không
đắm trước của Căn. Một là nhìn sắc dù đẹp, dù xấu, mắt không đắm trước. Hai là
nghe âm thanh dù hay dù dỡ, tai không đắm trước. Ba là ngửi hương vị dù thơm dù
thối, mũi không đắm trước. Bốn là nếm mùi vị dù ngon dù dỡ, lưỡi không đắm
trước. Năm là đụng đồ vật dù mịn dù nhám, thân không đắm trước. Năm Căn là như
vậy đó.
-
Còn năm Lực?
-
Là năm sức mạnh
kềm chế năm Căn, không cho dấy khởi các điều dữ. Một là kềm chế được con mắt.
Hai là kềm chế được lỗ tai. Ba là kềm chế được lỗ mũi. Bốn là kềm chế được lỗ
miệng. Năm là kềm chế được cái thân. Nhờ năm sức mạnh nầy kềm chế năm Căn khiến
ý tránh khỏi sự sa ngã. Năm lực là vậy đó.
-
Còn bảy Giác Ý?
-
Là tác dụng của
trí hiểu biết trong bảy phương diện. Một là Ý giác ý nghĩa là trí tự giác ngộ.
Hai là Phân biệt giác ý nghĩa là trí chọn lựa chánh pháp, tà pháp. Ba là Tinh
tấn giác ý nghĩa là trí chuyên cần tu tập chính pháp. Bốn là Khả giác ý nghĩa
là ý trừ bỏ các chướng ngại. Năm là Ỷ giác ý nghĩa là trí thường niệm giải
thoát. Sáu là Ðịnh giác ý nghĩa là trí thường ở trong đại định. Bảy là Hộ giác
ý nghĩa là trí loại bỏ các tà pháp, bảo vệ các pháp lành đã tu tập được. Bảy
giác ý là như vậy đó.
-
Còn tám Ðạo hành?
(9)
-
Là tám phương
thức hành đạo, dẫn dắt đến đạo quả. Một là Trực Kiến nghĩa là kiến giải ngay
thẳng. Hai là Trực Niệm nghĩa là nhớ nghĩ ngay thẳng. Ba là Trực Ngữ nghĩa là
lời nói ngay thẳng. Bốn là Trực Trị nghĩa là trị lý công việc ngay thẳng. Năm
là Trực Nghiệp nghĩa là đời sống ngay thẳng. Sáu là Trực Phương Tiện nghĩa là
phương tiện ngay thẳng. Bảy là Trực Ý nghĩa là ý nghĩ ngay thẳng. Tám là Trực
Ðịnh nghĩa là định lực ngay thẳng. Ðó là tám phương thức hành đạo. Tất cả ba
mươi bảy phẩm pháp nầy đều lấy việc trì giới làm gốc.
-
Xin cho một ví dụ
để dễ hiểu.
-
Ví như người mang
đồ nặng đi xa, sở dĩ đi đứng vững vàng được là nhờ đất nâng đở. Lại ví như ngũ
cốc và các loại thảo mộc thảy đều từ đất mọc lên. Lại ví như tay thợ khéo xây
thành, trước hết phải đo lường đám đất để thiết lập nền móng rồi mới khởi công
xây cất. Lại ví như người mãi võ muốn trình diện nghệ thuật của mình, trước
tiên phải dọn dẹp một đám đất sạch sẽ, bằng phẳng nhiên hậu mới thi thố tài
năng được. Ðất là căn bản của muôn vật. Cũng vậy, giới là nền tảng của đức
hạnh. Là bậc cầu đạo giải thoát, đệ tử Phật trước tiên phải thực hành giới
hạnh, ức niệm hơn hành, hiểu rõ sự cần khổ thì mới xả bỏ được ái dục và tư niệm
tám phương thức hành đạo.
-
Làm sao xả bỏ
được ái dục?
-
Nhứt tâm niệm đạo
thì ái dục tự nhiên diệt.
-
Hay thay! Hay
thay!
c) Tinh tấn
Vua hỏi:
-
Bạch Ðại đức, còn
như tinh tấn là như thế nào?
-
Tâu Ðại vương,
giữ gìn điều lành và tán trợ điều lành, đó là tinh tấn.
-
Xin ví dụ cho dễ
hiểu.
-
Ví như trong việc
ngăn ngừa một bức vách sắp đổ hay một ngôi nhà sắp sập, người ta dùng trụ chống
để đỡ thì vách và nhà khỏi xiêu. Cũng thế, tinh tấn có công năng chống đỡ người
tu hành, nhờ đó mà lòng lành khỏi ngã nghiêng. Lại ví như khi vua sai quân binh
ra ngự giặc, thế giặc quá mạnh, quân binh sắp thua, vua phải phái thêm viện
binh ra tiếp cứu và trợ chiến, nhờ đó mà thắng trận đuổi được quân giặc. Người
có điều dữ như quân ít binh yếu trước thế giặc mạnh. Nếu không nhờ vào tinh tấn
để níu giữ điều lành, làm cho vững và tiêu diệt điều dữ cho hết, thì không sao
thắng được ác tâm mà thăng tiến trên con đường đạo. Như thế gọi là gìn giữ điều
lành và tán trợ điều lành.
Nói đến đây, Na Tiên bèn dẫn đọc một bài kệ:
Tinh tấn giúp điều lành.
Ðường lành ai đi xong,
Ðường đời sẽ ra khỏi.
Ba cõi chẳng trở lui.
-
Hay thay! Hay thay!
d) Niệm thiện
Vua
hỏi:
-
Bạch Ðại đức, còn
niệm thiện là như thế nào?
-
Tâu Ðại vương,
niệm thiện là ý luôn luôn nhớ nghĩ các việc lành. Nhớ nghĩ bằng hai cách: phân
ra và hiệp lại. Giống như người hái hoa, trước phải chọn từng cánh hoa thơm mà
cắt, cắt xong lại phải buộc chặt lại thành một bó. Bó kỷ thì gió thổi qua không
làm chúng tản lạc hay bay mất đi được. Lại cũng ví như quan giữ kho của vua,
sau khi được giao nhiệm vụ, trước phải chia đếm từng món vàng bạc châu báu,
soát xét cẩn thận; soát xét xong từng món mới gộp chung lại để biết tổng số
vàng bạc châu báu phải gìn giữ là bao nhiêu. Cũng thế, người tu hành muốn đắc
đạo, phải thường tâm niệm 37 phẩm pháp để ghi nhớ. Như vậy gọi là niệm đạo lý
xuất sanh tử. Ai tưởng niệm đạo lý như thế mới biết điều lành để theo và điều
dữ nên tránh. Phân biệt rành rẽ đâu là trắng, đâu là đen, rồi sau đó mới tự
mình quan sát suy tư mà mà bỏ ác hướng lành.
-
Xin cho ví dụ.
-
Ví như quan hầu
giữ cửa cung vua, phải biết những ai được vua ưa chuộng, những ai không được
vua ưa chuộng, những ai có ích cho vua, những ai không có ích cho vua. Người có
ích được vua ưa chuộng thì mới rước vào; kẻ không có ích cũng không được vua
chuộng hẳn phải ngăn lại hoặc xua đuổi đi. Người tu hành gìn giữ niệm thiện
cũng giống như thế. Ðiều lành thì cho vào, điều không lành thì xua ra. Giữ gìn
cái ý chế ngự cái tâm, phải như thế đó.
Ðến đây Na tiên dẫn đọc một bài kệ:
Tu
hành cần giữ kỷ,
Sáu
giặc và tâm ý.
Ái
dục phải kềm chặt,
Luân
hồi chắc chắn thoát.
-
Hay thay! Hay
thay!
e) Nhứt tâm
Vua hỏi:
-
Bạch Ðại đức, còn
nhứt tâm là như thế nào?
-
Tâu Ðại vương,
nhứt tâm là quy cái tâm về một mối. Tức thiền định. Trong các điều lành, nhứt
tâm là pháp tối thắng hơn hết. Ai quy nhứt được tâm mình thì khai thông được
mọi điều lành. Vì mọi điều lành do nhứt tâm mà ra.
-
Xin cho ví dụ.
-
Ví như nhà phải
có nóc thì rui, mè, kèo, cột mới từ đó mà trùm xuống làm kín nhà. Cũng thế,
người làm điều lành phải bắt gốc từ nhứt tâm thì điều lành mới trọn vẹn. Lại ví
như vua xuất quân ra trận, các binh chủng như tượng binh, mã binh, xa binh, bộ
binh thảy đều theo mệnh lệnh vua và do vua điều khiển, thì mới tiến đánh được quân
giặc. Nếu không có chủ soái thì binh loạn. Các giới điều và các việc lành mà
Phật nói trong kinh đều tùy nơi nhứt tâm hết. Nhứt tâm là chủ soái; giới điều
và việc lành là quân binh.
Ðến đây Na tiên dẫn đọc một bài kệ:
Nhứt
tâm là cội điều lành,
Y
vào cội ấy tu hành mới xong.
Tử
sanh nước chảy xuôi giòng,
Trước
sau tiếp nối khốn hòng nghỉ ngưng.
f) Trí tuệ
Vua hỏi:
-
Bạch Ðại đức, còn
trí tuệ là như thế nào?
-
Tâu Ðại vương,
như đã nói ở đoạn trước, trí tuệ là "Ðoạn" và "Minh". Người
có trí tuệ mới cắt đứt được (đoạn) các điều nghi ngờ và làm sáng tỏ được (minh)
các điều lành. Trí tuệ là như thế đó.
-
Xin cho ví dụ.
-
Ví như đèn sáng
thắp trong phòng tối. Ánh sáng ngọn đèn vừa toả ra, tức khắc bóng tối tiêu tan,
phòng tự bừng rạng, trông rõ mồn một. Cũng thế trí tuệ soi suốt cả, như ánh
sáng ngọn đèn soi sáng khắp phòng. Lại ví như dao bén chặt cây, lát dao đưa đến
đâu, cắt đứt đến đó. Cũng thế, trí tuệ cắt đứt các điều dữ, giống như dao bén
chặt ngọt. Trên thế gian nầy, trí tuệ là pháp tối thắng số một. Ai có trí tuệ
mới mong độ thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi.
-
Bạch Ðại đức, các
điều lành mà đại đức đã giải bày tường tận cho trẫm nghe nãy giờ gồm nhiều loại
sai khác nhau, nhưng công hiệu của chúng trong việc xua đuổi các điều dữ có
giống nhau không?
-
Tâu Ðại vương,
các điều lành nói trong kinh Phật thảy đều cùng một công hiệu như nhau là diệt
trừ tất cả các điều dữ.
-
Xin cho ví dụ.
-
Ví như bốn binh
chủng: Tượng, mã, xa, bộ mà vua đốc thúc ra trận để ngự địch, không binh chủng
nào giống binh chủng nào, nhưng tất cả đều cùng nhằm một mục đích chung; chiến
thắng quân địch. Cũng thế, các điều lành nói trong kinh Phật, tuy chủng loại có
khác nhau, nhưng tất cả đều hướng đến một mục đích chung đua nhau công phá và
tận diệt các điều dữ.
-
Hay thay! Hay
thay! Lời Ðại đức nói, quả có đúng như vậy.
Ghi chú:
(1) Bản Hán dịch ghi là: Thành tín, Hiếu
thuận, Tinh Tấn, Niệm thiện, Nhứt tâm, Trí tuệ. Bản dịch Pali ghi là: Trì giới,
Ðức tin, Tinh tấn, Trí nhớ, Nhập định, Trí tuệ. Trong 6 pháp thiện nầy, thứ tự
và danh xưng của 2 bản Hán và Pali có sai khác nhau. Thành tín trong bản Hán
tương đương với Ðức tin trong bản Pali. Trì giới trong bản Pali tương đương với
Hiếu thuận trong bản Hán. Lại nữa xét về nội dung thì trong Thành Tín chỉ nói
về tín tâm hay đức tin, nên ở đây chúng tôi đổi là Tín tâm. Dưới danh xưng Hiếu
thuận, nội dung chỉ nói đến phương pháp rèn luyện đức hạnh, nên ở đây chúng tôi
đổi lại là Trì giới.
(2) Về ba mươi bảy phẩm pháp nầy, danh xưng
thông dụng ngày nay là: Tam thập thất đạo phẩm, hay tam thập thất phần pháp,
hay Tam thập thất bồ đề phần pháp, hay Tam thập thất phẩm. Ðây là lương thực,
là hành trang và tiền của (tư lương) của người tu hành trên con đường tiến đến
niết bàn giải thoát. Gồm có: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, ngũ
lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo phần.
Bản dịch Pali ghi theo thứ tự và danh xưng:
Ngũ căn, ngũ lực, Thất giác chi, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Tứ
thiền, 8 phép giải thoát, 1 pháp định và 3 pháp nhập định; cọng thành 45 pháp.
Trong hai bản Hán dịch hiện có trong Ðại tạng
kinh (đánh số 1670 A và số 1670 B) đều ghi con số 37 và đều cùng gọi là: Tam
thập thất phẩm kinh. Có sai khác nhau về chi tiết, danh xưng và nhất là nội
dung. Bản 1670 A không
ghi đủ con số 37 phẩm, 37 phẩm trong bài nầy lấy trong bản 1670 B.
(3) Bản 1670 A ghi là: Thiện sự tâm ý sở chị
Gồm có: 1) quán sát trong và ngoài thân mình; 2) biết khổ hay vui của ý; 3)
biết điều lành hay điều dữ của tâm; 4) biết chánh pháp.
(4) Bản 1670 A không có danh xưng riêng, chỉ
nêu lên 4 điều kiềm chế ý mình: 1) không cho điều dữ lọt vào tai; 2) tâm lỡ
móng điều dữ liền khử bỏ ngay; 3) tâm luôn cầu có điều lành vào; 4) tâm có điều
lành phải khéo giữ lấy chớ không buông ra.
(5) Bản 1670 A ghi là: Tự tại dục sở tác. Gồm
có: 1) khước dục; 2) tinh tấn; 3) chế tâm, 4) tư duy.
(6) Bản 1670 A bỏ sót không ghi.
(7) Bản 1670 A ghi là: Ngũ hiệu sự. Gồm có:
1) thành tín; 2) hiếu thuận; 3) tinh tấn; 4) tận tâm niệm thiện; 5) trí tuệ. Như vậy là gần trùng với sáu pháp lành
căn bản nói ở đoạn đầu.
(8) Bản 1670 A ghi là: Thất sự khí trừ chư
ác, cũng gọi là thất thiện hay thất giác ý. Nhưng không ghi danh xưng từng điều
một.
(9) Bản 1670 A ghi là: Bát chủng đạo hành,
giống như trong bản 1670 B, nhưng không ghi danh xưng từng điều một.
8. Tương quan giữa thân trước và thân sau.
Vua hỏi:
-
Bạch Ðại đức,
kinh Phật nói con người sau khi chết, tiếp tục thác sanh trở lại theo nghiệp
lành dữ đã gây, như vậy đó là con người cũ hay là một con người mới nào khác?
-
Tâu Ðại vương,
không phải con người cũ, nhưng cũng chẳng phải lìa con người cũ ra mà sanh một
con người mới khác.
-
Như thế nghĩa là
thế nào?
Na Tiên chụp hỏi lại:
-
Bệ hạ hồi còn bú
vú mẹ với bệ hạ cai trị trăm họ bây giờ có khác gì nhau không?
-
Khác chứ! Hồi đó
trẫm nhỏ dại, bây giờ trẫm lớn khôn.
-
Như vậy thì lệnh
mẫu hoàng hồi đó không phải mẫu hoàng ngày nay! Lệnh phụ hoàng cũng thế! Và bệ
hạ cũng chẳng có phụ đạo. Vì ông thầy ấy chỉ dạy đứa bé mươi mười lăm tuổi cách
đây mấy chục năm, chứ đâu có dạy bệ hạ bây giờ! Thân trước thân sau khác nhau
thì mẹ đứa bé không phải là mẹ nhà vua! Người học trò thuở trước cũng không
phải nhà vua trong hiện tại! Và kẻ phạm tội giết người năm ngoái không phải là
người bị cáo ra tòa ngày nay! Bệ hạ làm sao buộc tội được người ấy?
-
Bạch Ðại đức,
không phải như thế. Nhưng có ai hỏi Ðại đức về khoản nầy thì Ðại đức giải đáp
ra sao?
-
Tâu Ðại vương,
thân bần tăng lúc nhỏ với thân bần tăng bây giờ cũng là một thân mà thôi. Thân
ấy từ nhỏ đến lớn, trải qua nhiều quảng đời khác nhau, nhưng vẫn được liên tục
nuôi dưỡng bởi một sinh mạng.
-
Xin cho thí dụ.
-
Ví như một ngọn
đèn thắp từ đầu hôm nó có thể cháy mãi cho tới sáng không?
-
Có thể.
-
Lửa ngọn đèn thắp
lên từ đầu hôm với lửa ngọn đèn lúc nửa đêm và lửa ngọn đèn lúc gần sáng có
phải là một không?
-
Không.
-
Trong ba khoảng
thời gian khác nhau ấy, người ta có đốt ngọn đèn nào khác không?
-
Vốn chỉ một ngọn
đèn với một cái bấc và cùng một loại dầu từ đầu hôm cho đến tảng sáng.
-
Trong con người
cũng như thế đó, tâu Ðại vương. Pháp nầy đi thì pháp kia tới, trước sau tiếp
nối nhau, không ngừng mà nuôi dưỡng tinh thần. Từ khi sinh ra cho đến lớn lên
rồi già chết, nó lại thú hướng đến một kiếp sống khác, cứ thế triển chuyển
tương tục hoài hoài. Cho nên nói rằng thân cũ sanh trở lại thì không đúng,
nhưng nói lìa thân cũ ra mà có một thân mới khác cũng không được. Lại ví như
sữa tươi mới vắt, để lâu thì thành sữa ôi, thành bơ... Nói sữa tươi là bơ thì
hẳn không phải, nhưng nói bơ không do sữa tươi mà ra thì cũng sai. Cũng tương
tợ như thế, con người sinh ra với tinh thần và sau khi sinh thì lớn, già, rồi
chết. Chết rồi nó lại mang một thân mới mà sinh trở lại. Mất thân trước, nó
liền thọ thân sau. Cho nên nói người đầu thai sinh trở lại và người đã chết là
một thì không đúng, mà nói chúng tách lìa khỏi nhau cũng chẳng nhằm.
-
Hay thay! Hay
thay!
9. Tự biết hết tái sanh
Vua hỏi:
-
Bạch Ðại đức,
người không còn tái sanh nữa có thể tự mình xác tri việc đó được không?
-
Tâu Ðại vương, có
thể được.
-
Bằng cách nào?
-
Ai tự biết mình
không còn ân ái, không còn tham dục, không có dụng tâm làm điều dữ, người đó tự
biết chắc không còn tái sanh trên cõi đời nầy nữa.
-
Xin cho ví dụ.
-
Ví như người làm
ruộng, đầu mùa lo cày bừa, gieo giống, cấy mạ thì đến cuối mùa thu hoạch nhiều
lúa cất chứa trong vựa. Qua năm sau nếu người ấy không cày bừa, gieo giống và
cấy mạ nữa, mà chỉ tiêu dùng số lúa còn dự trữ của năm trước, như vậy người ấy
có thể tự biết rằng mình không gặt lúa nữa không?
-
Biết chứ!
-
Bằng cách nào?
-
Không cày, không
gieo, không cấy, tức nhiên không có lúa mà gặt.
-
Bậc tu hành đắc
đạo cũng giống như thế. Quên ân ái, xả khổ vui, không tham dục, tức như không
cày, không gieo, không cấy. Ðương nhiên là sẽ không gặt quả tái sanh. Vì vậy,
bậc đắc đạo biết chắc rằng đời sau mình không còn tái sanh trên thế gian nầy
nữa.
10. Trí và Minh.
Vua hỏi:
-
Bạch Ðại đức,
người đắc đạo không còn tái sanh trong đời sau thì trí tuệ người ấy trong hiện
tại có khác gì người thường không?
-
Tâu Ðại vương, có
khác chứ!
-
Thế thì có sáng
suốt (minh) không?
-
Có chứ!
-
Trí tuệ và sáng
suốt giống và khác nhau chỗ nào?
-
Ngang bằng như nhau.
-
Người có trí tuệ
và sáng suốt có biết hết vạn sự vạn vật không? hay là có điều còn không biết?
-
Có điều biết mà
cũng có điều không biết.
-
Vì sao thế? Vậy
những gì trí tuệ biết được và những gì nó không biết được?
-
Những gì trước đã
có học thì nay biết. Những gì trước chưa học thì nay không biết. Ðó là lẽ đương
nhiên. Nhưng người có trí tuệ sở dĩ khác với người thường là chỉ ở các điểm sau
đây: họ biết rõ người và muôn vật thảy đều quy không, không tự tại; biết rõ
những ham muốn của con người gieo trồng đau khổ khiến nẩy sinh thêm nhiều đau
khổ khác. Nói tóm lại là người có trí tuệ biết rõ mọi việc thành bại vô thường
trên cõi đời nầy.
-
Người có trí tuệ
rồi thì bao nhiêu si ám, u mê trước kia đi đâu?
-
Tự tiêu tan hết.
-
Xin cho ví dụ.
-
Ví như người cầm cây
đèn đang cháy đi vào phòng tối, trọn phòng liền sáng, bóng tối tự nó tiêu tan
không lưu dư dấu vết. Ấy người đắc đạo có trí tuệ cũng như vậy đó: Si ám, u mê
tự dứt trừ.
-
Rồi sau đó trí
tuệ đi đâu?
-
Nó lại cũng tự
biến mất. Nhưng những gì mà nó tạo ra như sự hiểu biết về cuộc đời đau khổ, về
bản ngã hư dối..., những cái ấy thì còn.
-
Xin cho ví dụ.
-
Ví như ban đêm
thắp đèn lên để chép sách, sau khi đèn tắt, chữ trên trang giấy vẫn còn lưu lại
dấu vết.
-
Ðại đức bảo rằng
trí tuệ sau khi thành tựu công việc lại tự biến đi, như thế là ra làm sao? Xin
ví dụ cho nghe.
-
Tâu Ðại vương, ví
như để đề phòng một trận hỏa tai, người ta sắp sẵn năm chum đầy ấp nước. Kế đó,
hỏa tai xảy ra nước trong năm chum được dùng để cứu lửa. Nước vào, lửa tắt. Tai
qua, nạn khỏi, vĩnh viễn không còn sợ diễn lại nữa. Bãy giờ người ta có còn đem
để năm chum nước ấy trở lại chỗ cũ nữa không?
-
Hẳn là không, vì
không còn ích lợi nữa.
-
Cũng thế, người
có trí tuệ dùng năm điều thiện để tiêu trừ các điều ác, giống như kẻ kia dùng
năm chum nước để diệt trừ ngọn lửa. Năm điều thiện đó là: tín tâm, trì giới,
tinh tấn, niệm thiện và nhứt tâm. Ai phụng hành được năm điều thiện ấy thì đắc
đạo và có trí tuệ. Có trí tuệ thì biết rõ thân mình và muôn vật thảy đều vô
thường, không tự tại, trống rỗng, không thật. Và cái trí tuệ sau khi thông đạt
rồi thì tự nó lại tiêu biến, nhưng những gì mà nó đã thông đạt thì vẫn còn.
-
Xin cho một ví dụ
khác.
-
Ví như ông thầy
thuốc trị bệnh cho người ốm, dùng năm loại dược thảo mà bào chế rồi cho người
ốm uống. Uống xong, người ốm lành bệnh. Sau đó ông thầy thuốc có còn đem năm
thứ thuốc ấy mà tiếp tục cho người kia uống nữa không?
-
Hẳn là không. Vì
không còn ích lợi gì nữa.
-
Năm loại dược
thảo ví như năm điều thiện. Ông thầy thuốc ví như người tu hành đắc đạo. Căn
bệnh ví như các điều ác. Người ốm ví như kẻ ngu si. Người ốm lành bệnh ví như
kẻ được cứu ra khỏi sanh tử luân hồi. Sau khi thành tựu sứ mạng, trí tuệ của
người đắc đạo tự tiêu biến, nhưng những gì nó tạo ra đều vẫn còn.
-
Xin cho thêm một
ví dụ nữa cho rõ nghĩa hơn.
-
Ví như một tướng
quân xuất trận tay cầm cung tên mà xông ra chống giặc. Tướng quân bắn ra năm
mũi tên, giặc thua chạy. Vậy sau đó, ông ta có còn bắn thêm nữa không?
-
Hẳn là không, vì
không còn cần nữa.
-
Năm điều thiện
giống như năm mũi tên. Người tu hành đắc đạo giống như tướng quân xuất trận.
Các điều ác giống như quân giặc. Tướng quân nhờ năm mũi tên mà chiến thắng quân
giặc. Cũng thế, người tu hành dắc đạo nhờ năm điều thiện mà chiến thắng các
điều ác, chúng không còn nẩy sanh trở lại nữa, mà cái trí tuệ diệt trừ các điều
ác cũng tiêu biến luôn. Nhưng những gì nó tạo ra thì vẫn thường tại, bất diệt.
-
Hay thay! Hay
thay!
----o0o----
hay quá
Trả lờiXóahạt hạnh nhân