16 tháng 12, 2013

Tỉ giá và người nghèo - Phá giá hay không phá giá ?

Nguyễn Vạn Phú - Hai gia đình ở sát nhau nhưng hoàn cảnh khác nhau. Gia đình ông A dành dụm được chừng 2 tỉ đồng, dự trù sang năm cho con đi du học ở nước ngoài.
Gia đình ông B nghèo hơn chỉ tiết kiệm được 20 triệu đồng, cũng dự trù sang năm dùng để cho con đi học đại học tư trong nước. Cả hai gửi tiền vào ngân hàng vì năm đó lãi suất đang rất cao, chừng 20%/năm. Năm sau, tiền ông A lên thành 2,4 tỉ đồng, tiền ông B lên thành 24 triệu đồng.

Cả năm đó tỉ giá hầu như không thay đổi nên ông A đổi được thành 100.000 đôla cho con đi du học mà vẫn dư ra một khoản lớn. Trường con ông B vì học phí tính bằng tiền đồng nên đã điều chỉnh theo lạm phát, học phí thay vì 20 triệu đồng nay đã tăng lên thành 30 triệu đồng, ông B méo mặt vì hụt một khoản không nhỏ.


Câu chuyện trên chỉ là giả định với những con số cố ý làm tròn cho dễ hình dung. Trong bối cảnh con số thống kê ở Việt Nam bị chê là thiếu tin cậy, tốt nhất là dùng cách “tính rợ” của dân gian. Tính nhẩm kiểu như trên cũng cho ta thấy: khi lạm phát cao mà tỉ giá không điều chỉnh theo tương ứng thì tỉ giá đó có lợi cho những ai có liên quan đến ngoại tệ và có hại cho những ai chỉ biết dùng tiền đồng.

Gia đình ông C chuyên ăn thịt bò ngoại nhập dù đắt hơn thịt bò trong nước. Năm trước ông bỏ ra 350.000 đồng mua một ký thịt bò Úc, trong khi gia đình ông D chỉ phải bỏ ra 300.000 đồng mua thịt bò dưới quê.

Qua một năm, đồng bạc mất giá, giá thịt bò trong nước lên thành 350.000 đồng, trong khi đó vì tỉ giá hầu như không thay đổi, dân nhập thịt bò Úc vẫn giữ nguyên giá bán 350.000 đồng. Nay coi như ông C lợi hơn ông D vì trả cùng giá như nhau mà được ăn thịt bò ngoại. Ông D cũng không dại, bèn chuyển sang mua thịt bò Úc luôn, thế là thị trường thịt bò trong nước ngày càng tiêu điều vì không cạnh tranh nổi.

Ví dụ thứ nhì cho thấy vì sao nhiều chuyên gia kinh tế nói chính sách tỉ giá đang làm sản xuất trong nước ngày càng kiệt quệ, không cạnh tranh nổi với hàng ngoại nhập. Cứ thử làm những phép tính tương tự sẽ thấy không một mặt hàng nào, từ đường, sữa đến cả cây tăm cạnh tranh nổi với hàng nhập khẩu cùng loại nếu năm nào lạm phát cũng cao mà tỉ giá vẫn được giữ hầu như cố định.

Nhìn cách khác, có thể nói lạm phát làm chi phí sản xuất ở Việt Nam tăng lên quá nhanh, làm lần lượt nhiều mặt hàng mất tính cạnh tranh với hàng nhập khẩu.

Bây giờ chúng ta nhìn vào bức tranh ngược lại để xem tình hình này tác động như thế nào với những người hoạt động xuất khẩu.

Giả dụ năm này ông nông dân E bán gạo cho công ty xuất khẩu với giá 21.000 đồng/ký, tức chừng 1 USD/ký (lấy con số giả định cho dễ hình dung). Một năm sau đó, ông vẫn phải bán với cùng giá này vì giá thế giới không đổi, tỉ giá không đổi.

Trong năm đó, chỉ số giá tiêu dùng trong nước tăng khoảng 25%, tức giá cả tăng thêm chừng một phần tư trong khi thu nhập ông E không đổi, biểu sao gia đình ông ngày không một nghèo thêm, bởi chỉ số giá tăng chừng đó mà chi phí cho y tế và giáo dục thường tăng vọt cao hơn nhiều lần.

Công nhân và nhân viên làm cho Nhà nước cũng nghèo như nông dân nhưng dù sao hằng năm lương còn được điều chỉnh theo sự trượt giá của đồng tiền. Còn nông dân, trừ phi bán sản phẩm cho thị trường nội địa, nếu cứ bám theo thị trường xuất khẩu sẽ chịu thiệt thòi, nhất là khi giá nông sản thế giới lại giảm.

Nói như thế không có nghĩa cổ xúy cho việc phá giá đồng tiền, dân ta mỗi khi nghe hai chữ phá giá lại càng lo ngại, lại tác động mạnh lên lạm phát, hóa ra lợi bất cập hại. Điều dễ làm nhất, mà cũng là chủ trương được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, là điều chỉnh tỉ giá danh nghĩa sao cho linh hoạt, từng ngày, từng tuần chứ không phải tự nhiên làm một lần cho gây sốc.

Tỉ giá thật đang cho thấy tiền đồng đã và đang tăng giá so với đôla Mỹ, cần điều chỉnh tỉ giá danh nghĩa để tỉ giá trở về đúng giá thật của nó. Vấn đề là nói linh hoạt nhưng dường như ai cũng quên, có lẽ vì để nguyên tỉ giá như thế có lợi cho người có tiền, người sử dụng nhiều hàng nhập, nhất là người nợ nước ngoài nhiều.

Thêm nữa, tỉ giá giữ nguyên trong khi lạm phát cao tạo ra một ảo tưởng là thu nhập đầu người tính bằng đôla Mỹ đang tăng nhanh, làm mọi người an tâm rằng tình hình phát triển kinh tế đang tốt đẹp.

Tình hình cứ như thế này, ông H sẽ mua được xe hơi nhập từ Nhật. Giá nay còn cao nhưng thu nhập ông H đang tăng dần theo sự mất giá của tiền đồng. Cứ đợi thêm một thời gian, lấy mớ tiền đồng mà thực chất giá trị sử dụng chưa bằng một phần so với những năm trước, đổi sang đôla (được bảo đảm tỉ giá “ổn định”), ông H sẽ có đủ tiền đô mua xe như ông A cho con đi du học mà có lẽ vẫn còn dư kha khá.

Nguyễn Vạn Phú
(Tuổi trẻ)

3 nhận xét:
1) Bài viết này có mấy ý sai, nhất là đoạn "khi lạm phát cao mà tỉ giá không điều chỉnh theo tương ứng thì tỉ giá đó có lợi cho những ai có liên quan đến ngoại tệ và có hại cho những ai chỉ biết dùng tiền đồng". Điều này cổ vũ cho việc giữ ngoại tệ. Thực ra những người giữ ngoại tệ đều thiệt, vì khi cần đổi sang tiền Việt thì số tiền thu được không tăng kịp với tốc độ lạm phát. Ví dụ của bác Phú chỉ rõ dù sau này sẽ sử dụng tiền Việt hay ngoại tệ thì hiện tại cứ giữ tiền đồng và gửi tiết kiệm sẽ có lợi; chỉ khi cần ngoại tệ mới rút tiền Việt ra mua ngoại tệ, như thế là lợi nhất. Như vậy, cố định tỷ giá thì người giữ nội tệ sẽ lợi.
Một ví dụ khá thô thiển là "giả dụ năm này ông nông dân E bán gạo cho công ty xuất khẩu với giá 21.000 đồng/ký, tức chừng 1 USD/ký. Một năm sau đó, ông vẫn phải bán với cùng giá này vì giá thế giới không đổi, tỉ giá không đổi trong khi chỉ số giá tiêu dùng trong nước tăng khoảng 25%". Nông dân sẽ không chấp nhận vẫn bán theo giá năm trước mà sẽ yêu cầu công ty xuất khẩu ít nhiều đều phải tăng giá mua lên, nếu không họ sẽ giữ gạo bán cho thị trường trong nước và giảm sản xuất gạo, chuyển sang trồng loại cây khác. Kết quả cuối cùng là xuất khẩu và sản xuất gạo đầu giảm. Tất nhiên, quá trình đó cũng làm nông dân nghèo đi.
2) Bác Phú lấy ví dụ cả ông A và ông B gửi tiết kiệm tiền nhàn rỗi của mỗi người, chỉ đến khi cần chi tiêu, ông A cho con đi du học nên đổi ra đô-la để con trang trải chi phí và ông B trả học phí cho con ở trường tư trong nước. Vì học phí trong nước tăng 50% và nước ngoài 0%, trong khi tiền lãi tăng 20%, nên ông A vẫn còn dư một khoản tiền, còn ông B phải bù thêm.

Giả định tỷ giá không thay đổi, ở đây lúc đầu kỳ hai ông đều gửi tiền đồng và rút ra chi tiêu trong nước vào cuối kỳ thì không nói, nhưng một ông chi trả dịch vụ nước ngoài (nhập khẩu) và một ông chi tiêu trong nước nên mới có sự chênh lệch: khi lạm phát cao mà tỉ giá không điều chỉnh theo tương ứng thì tỉ giá đó có lợi cho những ai có liên quan đến ngoại tệ và có hại cho những ai chỉ biết dùng tiền đồng.

Cho nên, Bác ấy không nói sai. Cùng một tỷ lệ tăng thu nhập như nhau và thu nhập được sử dụng hoàn toàn cho chi tiêu, nhưng lạm phát trong nước cao hơn, khiến cho mức chi tiêu của ông B thấp tương đối so với ông A (người có liên quan đến ngoại tệ, tức là chi tiêu bằng ngoại tệ-nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ).

3) Cháu cũng đồng ý với độc giả Nặc Danh cho rằng ví dụ của Bác Phú là không sai. Tuy nhiên có lẽ cháu nghĩ cần phải làm rõ tác dụng trái ngược của hiện tượng tỷ giá ổn định, không điểu chỉnh tương ứng với lạm phát cao đối với xuất khẩu và nhập khẩu. Với nhập khẩu thì tương tự như ví dụ của Bác Phú nói tức là lợi cho người nhập khẩu, còn với xuất khẩu thì đúng là thiệt cho người xuất khẩu như Bác Mai bình luận bên trên.
---------
Nguồn: Internet

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét