29 tháng 7, 2012

HIỀN NHÂN

(trích)

Bấy giờ nhân dân trong nước, nhờ Hiền Nhân giáo hoá đều trở nên hiền lương, từ khi ông làm chính trị đến nay, nước nhà yên ổn, mưa thuận gió hoà, mùa màng trúng tiết, các quan đều thừa hành pháp luật không dám nhiễu hại nhân dân nữa. Hiền Nhân thể theo đạo vô vi, quý trọng Phật pháp, kính thờ bốn đạo, sa môn sáng chiều thường tụ tập với người kêu Người bằng cậu, đứa cháu ấy rất hiền lành lại có chí, thường tôn thờ Hiền Nhân như thầy, những bậc thức giả trong nước phần nhiều xu hướng theo Hiền Nhân cả. Nhà Vua không còn lo điều gì, mọi việc đều phó thác cho ông. Cũng vì nên bốn quan cận thần nể sợ không dám tung
hoành như trước nữa. Họ đem lòng ganh ghét, toan lập mưu hại Hiền Nhân, bốn người cùng nhau góp của
cải, mỗi người có đến ức vạn, chờ khi Vua ngự giá ra ngoài, liền đem lễ vật ấy dâng lên Hoàng Hậu. Bốn quan tự trần:- Thưa lịnh bà, chúng tôi khi nào cũng hết lòng cung kính bà. Nay có vật của nhà, xin đem dâng lịnh bà, vợ con chúng tôi sẽ là kẻ hầu hạ lịnh bà suốt đời. Chúng tôi muốn lịnh bà cho phép chúng tôi thưa một chuyện.
Hoàng Hậu sẵn tính tham, muốn nhận những lễ vật quý giá, liền vội vã đáp lại bốn vị cận thần:
- Các quan muốn gì thì cứ nói đi.
Bốn vị cận thần đồng thưa:

- Thưa lịnh bà, nay Đức Vua quá tin cậy Hiền Nhân, mà hắn là người thô lậu, ăn mặc xấu như là hành khất. Vua trọng đãi quá, mà hắn không nghĩ gì đến ơn Vua, lộc nước. Hằng ngày nói xấu lịnh bà, và khuyên Vua đừng lại phòng lịnh bà, phải xa lánh lịnh bà, chúng tôi trộm nghĩ, Lịnh bà còn trong thời trẻ trung cần phải có Thái tử để lập Đông cung. Nếu lỡ thời, thì sẽ tuyệt dòng, tuyệt giống, biết lấy ai nối ngôi Vua trị nước. Lịnh bà nên nghĩ kỹ, nếu không lo sớm trừ Hiền Nhân đi, thì sau này ăn năn không kịp.
Hoàng Hậu nghe nói, nổi giận:

- Hứ. Vua tin người ấy mà không biết mưu ác của hắn. Thôi, các quan hãy ra về đi, để tôi tự lo liệu việc này. Ngày mai, các quan sẽ không còn thấy Hiền Nhân nữa.

Sau khi bốn vị cận thần ra về, Hoàng Hậu liền lấy trái Chi tử soa khắp mặt cho da vàng, sổ tóc rối tung, rồi nằm sóng soài trên gường. Khi Đức Vua trở về, một thị nữ đến báo cho Vua hay:

- Tâu bệ hạ. Lịnh bà hôm nay có vẻ không vui.

Vua rất thương mến Hoàng Hậu, nên lật đật qua thăm, nhưng hỏi đến đôi ba phen mà Hoàng Hậu vẫn không lên tiếng trả lời, nhà Vua nổi giận quát lên:

- Đứa nào có tội đáng chém thế? Khanh muốn Trẫm bắt tội đứa nào, nói đi?

Hoàng hậu khóc lóc, tâu Vua:

- Bệ hạ, bệ hạ không nghe lời thần thiếp.

Vua dịu giọng:

- Khanh muốn nói gì thì nói đi. Trẫm sẽ nghe lời.

Phu nhân được nước tâu Vua:

- Hồi sáng khi bệ hạ đi khỏi, Hiền Nhân bèn đến nói với thiếp rằng: Nay Vua đã già yếu, không có thể chấp chính được nữa, mà quan dân trong nước đều tùng phục theo tôi, vậy lịnh bà hãy tính sao, để hai ta cùng nhau hưởng ngôi trời, lộc nước. Thiếp nghĩ: Thằng ăn xin nhờ hồng phúc của bệ hạ mà được sung sướng như thế, mà nay, nó âm mưu phản bội như vậy, nên thiếp rầu lắm.

Đức Vua nghe, dường như người mắc nghẹn, nuốt vào đã không được mà khạc ra cũng chẳng xong. Ngài nghĩ:

- Nếu không dùng Hiền Nhân thì sợ sau này sợ ân hận. Mà dùng, thì sợ trong nước rối loạn.

Vua lại nghĩ:

- Từ khi Hiền Nhân giúp ta đến nay đã được 12 năm trời, thường đem lòng trung chính lo việc nước, diệt trừ tai hoạ cho nhân dân, kẻ xa người gần đều biết và quý trọng như của báu trong nước, như vậy rất không nên trừ Hiền Nhân.

Nghĩ vậy đức Vua liền bảo Hoàng hậu:

- Nếu trừ Hiền Nhân, trong nước sẽ rối loạn. Thôi, Khanh hãy vì nhân dân nên cùng Trẫm nhẫn nại sự này đi.

Nghe Vua nói, Hoàng hậu gieo mình xuống đất khóc to lên mà rằng:

- Nếu bệ hạ không trị Hiền Nhân đi, thì thiếp sẽ nhảy xuống lầu tự tử cho Bệ hạ xem. Bệ hạ sẽ không còn thấy mặt thần thiếp nữa.

Nhà vua lật đật chạy đến đỡ Hoàng hậu dậy và khuyên dỗ:

- Khanh cũng hiểu phép chứ. Việc này không phải nhỏ. Thôi, hãy ngồi dậy, để cùng Trẫm bàn luận.

Hoàng hậu lại chỗ ngồi, Vua tiếp:

- Ta không nên dùng dao gậy trị kẻ tu hành, phải dùng phương kế mà đuổi đi mới được. Thế này, ta bớt phần cúng dường, sáng mai Hiền Nhân đến ta không cần làm lễ nữa, chỉ cần vòng tay cũng đủ, cho Ông ngồi gường tre nhà dưới, ăn gạo lức đựng trong chén sành, như vậy ông ta sẽ xấu hổ bỏ đi.

Nghe Vua nói thế, con Tân kỳ ở dưới gầm gường gầm gừ ra vẻ không vui, chỉ có Hoàng hậu là lấy làm sung sướng.

Sáng ngày, Hoàng Hậu làm theo lời Vua phán, bảo quan Giám trù cứ thế mà thi hành. Lúc bấy giờ, Hiền Nhân đến, đi vào cung, thì con chó chạy ra gầm gừ sủa, Hiền Nhân thấy Hoàng Hậu chỉ chấp tay chào sơ sài và thấy cách bày biện có khác hơn mọi ngày, thì Ngài biết ngay là có mưu kế gì đây. Người suy nghĩ:

- Mình không muốn hại ai, mà nay người ta trở lại hại mình như vậy, chi bằng phải lánh mặt vào núi tu hành cho xong. Quán nhơn sẽ sinh thù lớn, ta không nên khinh thường, họ đã âm mưu, ta phải cẩn thận, ta đã cô thân lại yếu đuối, lấy thế lực chánh trị, pháp luật mạnh hơn, nay đã có sẵn bát đựng cơm, bình đựng nước, với giày cỏ, đẫy da, nón lá cũng đủ rồi. Mấy ai biết nghĩ sự đời, nắng thời giúp nón, mưa thời giúp tơi.

Nghĩ thế, thọ trai xong, sửa sang hành lý, sắp sửa lên đường.

Nhà Vua kinh hãi thưa rằng:

- Ngài đi đâu thế?

Bối rối Vua quay lại chỉ Hoàng Hậu và bảo:

- Chính Hoàng Hậu làm cho ta trái ý Ngài.

Rồi nhà Vua lại nắm lấy tay Hiền Nhân hỏi:

- Ngài đi đâu thế?

Hiền Nhân đáp:

- Tôi vì Vua, trị nước đã 12 năm, chưa thấy con chó Tân kỳ ngầu ngừ, tru sủa như hôm nay, thấy nó sủa, tôi biết chắc có âm mưu chi đây! Nên tôi muốn đi gấp.

Vua tạ lỗi:

- Thật có như vậy. Ngài thật là người thông minh, biết những việc người chưa từng biết, xin Ngài ở lại để tôi ra lịnh bắt kẻ ác, Ngài chẳng cần đi nữa.

Hiền Nhân lắt đầu:

- Trước kia Vua hậu đãi, mà nay bạc bẽo, vã lại tôi cũng không có lỗi gì! Lúc này tôi nên đi là phải. Ở đời có thịnh ắt có suy. Có hội họp ắt có ly tán. Lành dữ vô thường. Hoạ phúc tự mình chút lấy. Kết bạn mà không bền chắc, thì không nên thân. Thân mà không có chừng độ, thân lâu sẽ có khinh lờ. Ví như múc nước giếng, múc sâu thì nổi cặn. Gần người hiền được thêm trí huệ. Ở với kẻ dốt càng thêm ngu si. Thường thấy thì hay khinh lờ. Xa nhau thì sanh oán giận. Giao tiếp với người lành nên qua lại có chừng độ. Thân mà có cung kính thì thân lâu càng có hậu. Giao thiệp với kẻ bất lương, họ ăn ở không thật thà, lời ngon tiếng ngọt, chẳng qua là để lợi dụng mình, dù cho có kết hợp cũng không tin. Vua lấy lễ độ tiếp tôi, tôi cung kính đáp lại. Nay Vua đối đãi khinh dễ thì tôi cách xa. Thân yêu nhau rồi có sự giận ghét nhau. Khi thương thì muốn nhờ cậy, lúc ghét thì chẳng muốn gần. Lấy sự cung kính nhau để cầu thân thiện. Lấy sự răn dạy lẫn nhau để tránh xa điều ác. Mà nay có người chẳng phân biệt cái nào là ác, cái nào là thiện, ấy chẳng phải là đạo an thân, người không có lỗi với mình thì mình không nên bày đặt sự sai lầm mà vu oan cho họ. Người muốn xa ta, thì ta không nên miễn cưỡng gần họ. Sự thương đã xa lìa, thì không nên nghĩ đến. Con chim đậu gãy nhánh còn biết đi tìm nhánh khác để đậu. Huống chi làm người, qua lại có pháp độ, hà tất phải thủ thường. Cành mục ta không nên vịn nắm. Người loạn ý, ta chẳng nên phạm nhầm họ. Người muốn đem việc xấu cho nhau, dù thấy nhau cũng không vui. Ta xướng mà người không phụ hoạ theo, nên biết đó là người ở bạc. Người muốn đem việc lành cho nhau, thì dù chậm, dù gấp cũng phải đi. Đem lời trung chính nhắc nhủ nhau, thì đủ biết người ấy là người có hậu. Mà nay lại có người không chịu gần người hiền, chẳng lánh xa kẻ ác. Trước kính, sau khinh, không phân biệt kẻ hiền người ngu, thì nếu ta không đi, còn đợi đến bao giờ mới đi. Hoàng Hậu ban đầu lễ lạy, mà nay chỉ vòng tay, nếu ta không đi để đến chừng mắng đuổi rồi mới đi hay sao? Ban đầu thì gường vàng, nay gường tre, ban đầu đũa ngà, chén ngọc mà nay chén sành, đũa tre, ban đầu thì cơm ngon, canh ngọt, mà nay cơm hẫm, gạo tấm. Vậy nếu ta không đi, để đến khi cơm đổ đất mới đi hay sao? Bạn trí thức gặp nhau như chủ đãi khách. Đêm đầu thì quý trọng như vàng, đêm thứ hai thì làm lơ như bạc, đêm thứ ba lạc nhách như đồng. Chứng cớ rõ ràng như vậy, nếu tôi không đi, đợi đến chừng nào mới đi.

Vua thưa:

- Nước Trẫm mà được giàu có, thịnh vượng là nhờ Ngài, nếu Ngài bỏ đi sau này nước nhà ắc sẽ hại.

Hiền Nhân đáp:

- Trong thiên hạ có 4 điều tự hoại:

Một là Cây có nhiều hoa trái thì nặng, sẽ gãy nhánh.

Hai là Rắn độc ngậm nọc độc, nọc độc sẽ trở lại hại nó.

Ba là Kẻ làm tôi không hiền, thì sẽ hại nước nhà.

Bốn là người làm việc bất thiện thì khi chết sẽ đoạ vào địa ngục.

Ấy là bốn điều tự hoại. Vậy nên trong Kinh dạy: Sự độc ác do tâm sinh ra, và sẽ trở lại tự hại tâm mình, cũng như sắt sinh ra sét, chất sét ấy trở lại tiêu hình của sắt.

Nhà Vua thưa:

- Trong nước không có tôi hiền, mọi việc đều nhờ nơi Ngài. Nếu Ngài bỏ Trẫm mà đi, thì nước nhà sau này sẽ nguy ngập.

Hiền Nhân đáp:

- Làm người có 4 điều tự nguy:

Một là Gánh vác việc nhà người.

Hai là Làm chứng việc nhà người.

Ba là Làm mai mối vợ chồng người.

Bốn là Tin nghe lời tà xiểm.

Ấy là bốn điều tự nguy. Vậy nên trong Kinh dạy rằng: “Người ngu chuyên làm việc ác, tự rước lấy sự tai hoạ vào thân. Đời nay vui lòng, lung ý, đời sau mang tội rất nặng”.

Nhà Vua thưa:

- Trẫm kính trọng Ngài như bạn quý, thường ở với nhau không khinh dễ, Ngài chớ bỏ mà đi.

Hiền Nhân đáp:

- Bạn có bốn thứ:

Một là kết bạn như Hoa;

Hai là kết bạn như Cân;

Ba là kết bạn như Núi;

Bốn là kết bạn như Đất.

Sao gọi là kết bạn như Hoa: - Khi bông hoa còn tươi tốt thì dắt trên đầu, khô héo rồi, bỏ đi. Kết bạn cũng thế. Hễ thấy giàu sang thì xu phụ theo, thấy nghèo nàn lại bỏ làm lơ.

Sao gọi là kết bạn như Cân: - Khi để vật nặng thì đầu gục xuống, vật nhẹ thì đầu võng lên. Có qua lại thì cung kính nhau, không qua lại thì khinh rẻ nhau.

Sao gọi là kết bạn như Núi: - Hòn núi vàng, loài chim thú tụ về, lông cánh được chói màu vàng rực. Kết bạn cũng thế. Khi sang thì sang với nhau. Khi vui đồng vui.

Sao gọi là kết bạn như Đất: - Tất cả mọi vật đều dựa đất mà sinh, làm bạn để nuôi dưỡng, ủng hộ, ân hậu không quên.

Nhà Vua thưa:

- Nay Trẫm biết cái trí suy nghĩ của Trẫm còn cạn, hẹp, tin theo lời tà xiểm, khiến Ngài Hiền Nhân phải ra đi!

Hiền nhân đáp:

- Người có trí biết bốn việc không tin:

Một là bạn tà nguỵ;

Hai là bề tôi nịnh xiểm;

Ba là vợ yêu nghiệt;

Bốn là con bất hiếu.

Ấy là bốn cái không tin theo. Vì thế Kinh dạy: “Bạn tà hại người, tôi nịnh hại triều, vợ yêu nghiệt phá nhà và con bất hiếu hại cả cha mẹ.”

Nhà Vua thưa:

- Trước kia Trẫm yêu quý, hậu trọng Ngài. Xin Ngài nghĩ lòng tốt của Trẫm không nên bỏ đi vậy!

Hiền Nhân đáp:

- Có mười trạng thái tỏ cho biết là có yêu quý hậu trọng:

Một là xa nhau lâu không quên;

Hai là thấy nhau thì vui mừng;

Ba là có món ngon vật lạ san sẻ cho nhau;

Bốn là khi có lỡ lời đừng chấp trách nhau;

Năm là nghe điều lành, càng thêm vui vẻ;

Sáu là thấy việc dữ, đem lời trung chính mà can gián;

Bảy là làm được những việc khó làm;

Tám là không đem chuyện riêng nói với người;

Chín là khi gặp việc bối rối, phải giải quyết cho nhau;

Mười là đến lúc nghèo khổ, không rời bỏ nhau.

Ấy là mười sự yêu quý, hậu trọng. Nên trong Kinh có dạy: “Bỏ dữ làm lành, tu tập đúng như pháp, đem lời trung chánh dạy dỗ nghĩa hiệp có đạo”.

Nhà Vua nói:

- Vì tội ác của bốn quan cận thần, nên Ngài giận không ưa Trẫm nữa.

Hiền Nhân đáp:

- Có tám việc biết là không ưa nhau:

Một là thấy nhau, mặt đổi sắc;

Hai là không liếc ngó, không thẳng thắn;

Ba là lời nói không ôn hoà;

Bốn là nói phải cho là quấy;

Năm là nghe lời suy bại thì vui thích;

Sáu là nghe lời hưng thịnh thì không vui;

Bảy là huỷ bỏ chê bai việc tốt đẹp của người;

Tám là tán thành việc ác của người;

Vậy trong kinh dạy rằng: “Lỡ đánh chết người, tội ấy còn có thể dung thứ, dùng tâm độc âm mưu để hại người, tâm địa ấy rất không nên gần”

- Trẫm là người ngu si, không biết phân biệt kẻ trí người ngu, nên nghe lời tà xiểm, làm trái mất ý thánh nhân.

Hiền Nhân đáp:

- Có mười sự chứng tỏ đó là người trí:

Một là biết kẻ hiền, người ngu;

Hai là biết kẻ sang, người hèn;

Ba là biết kẻ giàu, người nghèo;

Bốn là biết việc nào khó, việc nào dễ;

Năm là biết việc nào đáng bỏ, việc nào nên làm;

Sáu là biết nhiệm vụ của mình;

Bảy là vào nước nào biết được phong tục của nước ấy;

Tám là biết được chỗ trở về;

Chín là học rộng, hiểu nhiều;

Mười là biết được túc mạng.

Mười việc đó chứng tỏ người có trí. Kinh dạy: “Khi tai nạn gấp rút mới biết được lòng bạn; có đánh nhau mới biết kẻ yếu người mạnh; có luận nghị mới biết được người trí; lúc cơm thua, gạo kém mới biết người có lòng nhân”.

- Nước Trẫm từ khi được Ngài giúp đỡ, trong ngoài đều được an ổn, nếu nay Ngài bỏ ra đi thì Trẫm biết nương nhờ ai nữa!

- Có tám điều kiện để được an ổn:

Một là được của cha mẹ để lại;

Hai là có nghề nghiệp bảo đảm lấy sự sống của mình;

Ba là học thức cao;

Bốn là có bạn hiền;

Năm là có người vợ trinh lương;

Sáu là có người con hiếu thảo;

Bảy là tôi tớ được hoà thuận;

Tám là xa lìa việc ác;

Đó là tám điều kiện để được an ổn. Kinh dạy: “Sinh ra sẵn có của cha mẹ để lại và gặp được bạn hiền rất thích; các việc ác không phạm đến và có phước thừa rất thích”

- Lời của Thánh nhân, thật không một ai nghe mà không thích.

Hiền Nhân đáp:

- Có tám cái thích:

Một là cùng làm việc với người hiền;

Hai là được học với bậc thánh nhân;

Ba là tánh thể được nhân từ và ôn hoà;

Bốn là sự nghiệp mỗi ngày mỗi hưng thịnh;

Năm là diệt được tánh giận dữ;

Sáu là biết phòng ngừa tai nạn;

Bảy là biết nương gần đạo pháp;

Tám là bạn bè không dối gạt nhau.

Kinh chép rằng: “Có Phật ra đời rất thích, diễn giảng đạo pháp rất thích; chúng tăng nhóm họp và hoà thuận rất thích. Hoà thuận thì thường an vui”

- Ngài Hiền Nhân thường khi dễ khuyên can, mà sao nay lại khó cầm lắm thế?

Hiền Nhân đáp:

- Có mười trường hợp mình không thể khuyên can:

Một là tham lam che mất lương tri;

Hai là tham đắm sắc đẹp;

Ba là ưa danh vọng địa vị;

Bốn là kẻ ngang tàng, bạo ngược;

Năm là kẻ nhút nhác;

Sáu là kẻ khờ khạo, lừ đừ;

Bảy là kẻ kêu ngạo, buông lung;

Tám là người ưa đấu tranh;

Chín là người chấp tập tục, si mê;

Mười là kẻ tiểu nhân.

Ấy là mười trường hợp, mà ta không thể khuyên can. Kinh chép: “Nói pháp cho người ngu nghe cũng như nói với kẻ điếc, những ai khó quá độ, thì không thể khuyên can”.

- Trẫm là kẻ kêu ngạo, lại thêm buông lung, chưa thể xa lìa được sắc đẹp, còn Ngài là người đã chứng pháp vô vi, lẽ nào không nói với Trẫm nữa.

Hiền Nhân đáp:

- Có mười trường hợp mà mình không nên nói với người:

Một là kẻ ngạo mạn;

Hai là kẻ ngu độn;

Ba là kẻ hay lo sợ;

Bốn là kẻ ham vui chơi;

Năm là kẻ hay e lệ;

Sáu là kẻ câm ngọng;

Bảy là kẻ cừu hận;

Tám là kẻ đói lạnh;

Chín là kẻ mắc nhiều việc;

Mười là người đang tham thiền tịnh lự.

Đó là mười trường hợp. Trong kinh có câu: “Làm được hãy nên nói, làm không được thì đừng nói suông, lời hư nguỵ không thành tín, thì các bậc minh triết không thèm đoái đến”.

- Người đàn bà xinh đẹp, nói năng khôn khéo êm tai, mà trong thì tội ác ngoại dâm thì căn cứ vào đâu mà hiểu được họ?

Hiền Nhân đáp:

- Có mười triệu chứng sẽ hiện diện cho ta thấy:

Một là đầu tóc rối bời, nghiêng qua một bên;

Hai là mặt hay biến sắc và mồ hôi tự nhiên chảy;

Ba là lớn tiếng nói cười;

Bốn là hay liếc ngó không đoan chính;

Năm là trang sức lộng lấy;

Sáu là hay nhìn trộm qua kẻ vách;

Bảy là ngồi không yên;

Tám là hay dạo chơi trong xóm làng;

Chín là hay đi dạo ngoài đồng vắng;

Mười là hay giao thiệp với hạng dâm nữ.

Kinh chép: “Đàn bà, con gái thật khó tin, lời nói khôn khéo của họ rất dễ hại người, vì thế bậc cao sĩ lánh xa, không muốn thân cận”.

- Trẫm thấy thường thì người ta hay thân cận và tin cậy đàn bà. Mà không biết tội ác lừa gạt của họ.

Hiền Nhân đáp:

- Có mười việc không nên thân cận và tin cậy:

Một là vua tôi hậu đãi;

Hai là tình nhân của một người đàn bà mình quen;

Ba là kẻ ỷ sức mạnh;

Bốn là kẻ ỷ giàu tiền của;

Năm là chỗ nước chảy rất mạnh;

Sáu là chỗ nhà cũ, tường xiêu;

Bảy là hang rồng, hang rắn;

Tám là chỗ quan quân tra xét;

Chín là chỗ của kẻ đã thù giận mình;

Mười là chỗ có trùng độc.

Ấy chính là mười việc không nên thân cận và tin cậy. Trong kinh có câu: “Những ai bảo uống rượu không say, những ai bảo đã say không loạn, và Vua hậu đãi, đàn bà thương yêu, tất cả những cái ấy rất khó tin cậy”.

- Như lời Ngài nói thì có nhiều trường hợp thương nhau quá, rồi cũng ghét nhau quá. Trẫm rất ghét như vậy, và quả thật cái đó đáng ghét lắm.

Hiền Nhân đáp:

- Có năm cái ghét:

Một là ác khẩu hại người;

Hai là dèm pha, xiểm nịnh và thúc dục sự đấu tranh;

Ba là rầy rà không thuận hoà;

Bốn là ganh ghét và trù rủa.

Năm là nói hai lưỡi, gạt người.

Kinh dạy rằng: “Làm cho kẻ khác mệt nhọc và mình muốn mong sự hay ho về phần mình, thì chỉ rước vào thân, tự gây lấy oán thù sâu nặng”.

- Làm thế nào để người kính mến?

Hiền Nhân đáp:

- Có năm tính tốt này thì được người cung kính:

Một là nhu hoà nhẫn nhịn;

Hai là cung kính và có tín tâm;

Ba là mau mắn và ít nói;

Bốn là lời nói đi đôi với việc làm;

Năm là đối với bạn càng lâu càng thâm hậu;

Năm điều ấy là đặt tính làm cho người ta cung kính mình. Trong Kinh có câu: “Nếu biết thương lấy mình thì phải dè dặt giữ mình. Các bậc hiền sĩ có chí hướng cao thượng, học hiểu chính đáng thì không bao giờ lầm lạc”

- Còn vì sao bị người khinh mạn?

Hiền Nhân đáp:

- Năm nguyên do này bị người khinh mạn:

Một là kẻ râu dài mà ngã mạn;

Hai là áo quần dơ bẩn;

Ba là thiếu suy nghĩ;

Bốn là dâm ô, vô lễ;

Năm là chơi bời không tiết độ.

Kinh dạy: “Giữ và thâu nhiếp ý tưởng vào chỗ chính cũng như ngựa thâu dây cương, không kiêu, không mạn thì bậc Người và bậc Trời đều cung kính”

Nhà vua năn nỉ:

- Xin Ngài lưu ý cùng Trẫm trở về Tịnh xá.

Hiền Nhân đáp:

- Có mười kẻ mà mình không nên mời về nhà:

Một là thầy ác;

Hai là bạn Tà;

Ba là kẻ hay khinh bỉ bậc Thánh thần;

Bốn là kẻ hay nói tráo trở;

Năm là kẻ dâm ô;

Sáu là người thèm rượu;

Bảy là kẻ có tánh xấu;

Tám là người không biết ân nghĩa;

Chín là đàn bà con gái mất nết;

Mười là kẻ tuỳ thiếp ưa trang sức.

Đó là mười hạn người không nên mời đến nhà. Kinh chép: “Lánh xa người ác, đừng làm bạn dâm lung; chỉ nên tùng sự các bậc hiền giả, mới mong thành người minh đức.

- Được Ngài ở lại thì Trẫm cùng thiên hạ được an vui vô sự, nay Ngài bỏ đi thì nhân dân oán trách Trẫm.

Hiền Nhân đáp:

- Có tám điều kiện để được an vui:

Một là dâng thờ kính thuận các sư trưởng;

Hai là đem sự hiếu thuận dạy cho dân;

Ba là khiêm nhường kẻ trên người dưới;

Bốn là phải tập tánh nhân đức ôn hoà;

Năm là đến cứu người trong cơn nguy cấp;

Sáu là phải quên mình, nghĩ đến người;

Bảy là phải thu thuế, ăn lời nhẹ và phải biết tiết kiệm;

Tám là bỏ hận thù xưa. Đó là tám điều kiện để đuợc an vui.

Trong Kinh có câu: “Chuyên tu cội đức, nghĩ trước rồi làm sau, cứu giúp người trong cơn nguy cấp và bần khổ, thì trọn đời được an vui.”

- Trẫm luôn luôn nghĩ tới hiền nhân, nào có bao giờ lãng quên!

Hiền Nhân đáp:

- Bậc Trí giả có mười điều luôn nghĩ tới không bao giờ lãng quên:

Một là khi gà gáy sáng, đã nghĩ tới tội lỗi mà lo việc phước đức để đền bù lại;

Hai là nhớ việc hầu hạ tôn nhân;

Ba là gặp việc gì phải suy nghĩ, dự bị trước;

Bốn là phải lo nghĩ lánh xa sự nguy hại;

Năm là phải nghĩ trước mới nói sau, để khỏi phải lầm lạc;

Sáu là phải đến những kẻ lạc lầm mà đem lời trung chính dạy bảo nhắc nhủ họ;

Bảy là phải nghĩ đến những kẻ nghèo khổ để thương xót cấp hộ;

Tám là phải lo làm việc bố thí nếu mình có của;

Chín là phải nghĩ để sự ăn uống cho có chừng độ;

Mười là phải nhớ giữ sự công bình khi phân xử hoặc phân chia.

Mười một là phải nhớ đem ân từ bố thí dân gian;

Mười hai là phải thường nghĩ đến sự huấn luyện, nếu mình là quân sĩ hay võ quan.

Đó là mười hai điều mà kẻ trí giả phải nghĩ đến. Vậy nên trong Kinh có câu: “Làm việc gì phải lo dự bị trước, như vậy sự nghiệp sẽ mỗi ngày mỗi lớn, không khi nào thất bại.”

III.

- Tiếc rằng Trẫm không có một bậc đại hiền nào để cầu Hiền Nhân lại cho Trẫm.

Hiền Nhân lại tiếp:

- Bậc Đại hiền có 10 hạnh tốt:

Một là học rộng, hiểu nhiều;

Hai là không phạm giới luật trong Kinh dạy;

Ba là kính thờ Tam Bảo;

Bốn là thọ pháp lành không quên;

Năm là kiềm chế được tham, sân, si;

Sáu là tu được pháp bốn tâm bình đẳng;

Bảy là ưa làm việc ân đức;

Tám là không nhiễu hại chúng sinh;

Chín là hay quá độ được người bất nghĩa;

Mười là không lầm lộn việc lành, việc ác.

Kinh dạy: “Gặp được bậc Đại hiền rất khó, như ít có lắm vậy, các bậc ấy ở đâu thì bà con quyến thuộc và người xung quanh đều được nhờ cậy”.

- Thật là tội Trẫm quá nặng, nuôi dưỡng kẻ ác, làm cho Ngài giận mà bỏ đi.

Hiền Nhân đáp:

- Kẻ đại ác đại khái có 15 tội nặng:

Một là sát sanh;

Hai là trộm cắp;

Ba là quen thói dâm ô;

Bốn là dối trá;

Năm là nịnh hót;

Sáu là chút ngót;

Bảy là dèm pha;

Tám là khinh bậc hiền sĩ;

Chín là tham sự ô trượt;

Mười là buông lung;

Mười một là say sưa;

Mười hai là ganh ghét kẻ hiền;

Mười ba là huỷ báng đạo đức;

Mười bốn là sát hại thánh nhân;

Mười lăm là không kể tội lỗi.

Đó là lăm điều tội ác của kẻ phàm ngu. Trong kinh có câu: “Gian trược, tham lam, oán người lương thiện, làm việc bất chính thì khi chết đoạ vào ác đạo”.

- Trẫm năn nỉ Ngài mãi mà không được, lấy làm hổ thẹn quá.

- Người đời có 10 cái hổ thẹn:

Một là làm Vua không hiểu chính trị;

Hai là tôi thần mà vô lễ;

Ba là thọ ân không lo báo đáp;

Bốn là có tội lỗi không chịu chừa bỏ;

Năm là một vợ hai chồng hay một chồng hai vợ;

Sáu là chưa cưới mà có thai;

Bảy là tập hợp không thành;

Tám là có binh khí mà không thể chiến đấu;

Chín là kẻ bỏn xẻn thấy người bố thí;

Mười là tôi tớ mà chủ không sai khiến được.

Đó là mười cái đáng hổ thẹn. Kinh chép: “Những ai biết hổ thẹn đều là kẻ rất dễ dạy, rất dễ sách tấn, cũng như điều khiển ngựa hay”.

- Nay Trẫm biết rằng: Người đạo đức rất khó chìu chuộng.

- Có 12 điều khó:

Một là làm việc với người ngu;

Hai là yếu đuối chống được lại với sức mạnh;

Ba là thù nhau mà ở chung một nhà;

Bốn là học ít mà đứng ra nghị luận;

Năm là nghèo hèn mà trả được nợ;

Sáu là ra trận không có tướng sĩ;

Bảy là thờ Vua trọn đời;

Tám là học đạo mà mất tín tâm;

Chín là làm ác mà muốn quả báo đẹp;

Mười là sinh ra đời được gặp Phật;

Mười một là được chánh pháp của Phật;

Mười hai là làm theo được chánh pháp ấy mà thành tựu.

Đó là mười hai cái thật khó.

Kinh dạy: “Được làm người là khó; gặp Phật ra đời là khó; được nghe giáo pháp của Ngài là khó; Vâng làm theo giáo pháp ấy thật khó”.

Nhà vua khen ngợi:

- Gần bậc minh đức thật có lợi. Đàm luận với Ngài, Trẫm lại được thêm trí tuệ.

- Người có trí tuệ đại khái biết 45 việc:

Một - là sửa sang nhà cửa;

Hai - là gây một không khí hoà hợp trong gia đình;

Ba - là giao thân với chính họ;

Bốn - là tin ở bạn bè;

Năm - là theo học với bậc minh sư;

Sáu - là làm việc gì quyết cho thành tựu;

Bảy - là tài trí cao rộng;

Tám - là mọi hành vi đều hướng về việc lành;

Chín - là giàu sang thì lo làm việc ân đức;

Mười - là tạo tác và sửa sang đều phải thận trọng;

Mười một - là có của phải mở mang sự nghiệp;

Mười hai - là không giao của cải cho con cái, nếu chúng còn quá nhỏ;

Mười ba - là kết bạn với người hiền;

Mười bốn - là không quá tin những ai vừa mới quen biết;

Mười lăm - là tiền của ở chỗ huyện quan là phải đem về, đừng để lâu;

Mười sáu - là mua bán đổi chát phải thật thà, không hề lường gạt;

Mười bảy - là về ở nơi nào phải đến xem trước;

Mười tám - là đến đâu phải biết đó giàu hay nghèo, quý hay tiện;

Mười chín - là phải giao thiệp thân cận với người lành;

Hai mươi - là phải nương tựa vào một thế lực;

Hai mươi mốt - là đừng tranh hơn kém với kẻ cường bạo;

Hai mươi hai - là xưa giàu mà nay suy thì có thể mong phục hưng cơ nghiệp;

Hai mươi ba - là nếu bần khổ thì đừng có cao giọng to tát;

Hai mươi bốn - là có của quý không khoe với người;

Hai mươi lăm - là việc bí mật, đừng nói cho vợ nghe;

Hai mươi sáu - là làm Vua phải kính người hiền đức;

Hai mươi bảy - là phải ăn ở có hậu nhất là với bậc trung tín;

Hai mươi tám - là nếu thanh liêm có thể dùng trị nước hay có thể đứng ra trị nước;

Hai mươi chín - là gặp việc, phải lo lập công;

Ba mươi - là trong công cuộc giáo hoá, lấy sự hiếu thuận làm căn bản;

Ba mươi mốt - là phép của ông thầy, là quý sự ôn hoà như thế học trò đủ cung kính;

Ba mươi hai - là thầy có nhiều học trò là phải dạy chúng làm việc trung nghĩa;

Ba mươi ba - là làm thuốc phải hiệu nghiệm, nghề còn vụng chớ đem ra thi thố;

Ba mươi bốn - là đau ốm phải nghe lời thầy thuốc;

Ba mươi lăm - là ăn uống phải giữ cho có độ lượng;

Ba mươi sáu - là có của ngon, vật lạ chia sẻ cho nhau, đừng tiếc;

Ba mươi bảy - là cho ai hoặc cho ai mượn gì là mình phải tự tay mình trao cho họ;

Ba mươi tám - là làm chứng cớ cho người chính;

Ba mươi chín - là đừng vu oan cho kẻ vô tội;

Bốn mươi - là can gián sự oán giận và làm cho sự thuận thảo trở lại giữa hai người;

Bốn mươi mốt - là nhẫn nại và xa lánh việc ác;

Bốn mươi hai - là đừng phân biệt giàu nghèo mà ở với người;

Bốn mươi ba - là lấy sự thuận hoà làm quý;

Bốn mươi bốn - là theo đạo thì phải giữ giới;

Bốn mươi lăm - là lấy sự trong sạch làm quý hơn tất cả.

Trong trần thế, chỉ có đạo Niết Bàn là cao quý hơn cả. Vì sao? Vì Niết Bàn là cảnh giới không có sự già nua, bịnh, chết, không đói lạnh, không tai hoạ, nước lửa, không oan gia, không trộm cướp, không dục vọng ân ái, không lo buồn hoạn nạn, không tất cả những khổ sở đau đớn. Cảnh giới đó là diệt độ. Diệt độ không phải là một sự chết, nhưng đó là sự giải thoát tự tại của mình. Cảnh giới ấy hoàn toàn yên vui. Một niềm vui thanh tịnh vô biên. Có thể kiến lập cảnh giới ấy trên trần thế cho riêng mình và cho chung tất cả muôn loài. Bệ hạ hãy tự lo, tự tu, tự tịnh lấy. Bệ hạ hãy tự thương lấy Bệ hạ, Hiền Nhân này xin lên đường.

Vua lại hỏi:

- Ngài lên đường, thế không còn răng dạy Trẫm điều gì nữa ư?

Hiền Nhân đáp:

- Chỗ đất bị nước mạnh xói lỡ, thì dù một trăm năm sau cũng không nên dựng lấy một cái gì trên ấy. Vì dòng nước sẽ theo thói cũ mà lôi cuốn đi mất tất cả. Người có ác tâm mà bây giờ họ bảo mình là bắt đầu làm lành, thì mình quyết không nên tin vội. Vì tâm ác của họ chưa diệt, họ sẽ trở lại làm việc ác, ta phải nên dè dặt. Người muốn làm việc gì phải lần lần, như người đào giếng, đào mãi xuống sâu, sẽ có mạch nước. Kẻ trí giả thấy sự nguy hiểm hoặc bất bình giữa cuộc thế thì hay ra tay cứu giúp. Cũng như người có tài bơi lội, có thể lội ngang qua dòng nước mạnh.

Nhà Vua thưa:

- Lời dạy của Ngài từ trước đến sau, Trẫm đều ghi nhớ trong lòng. Và rồi đây, tất cả những trang sĩ phu trong nước nghe được sẽ không một ai là không vui mừng. Việc ác trước kia sẽ dẹp bỏ hết, không ai còn dám nói đến nữa.

Ngừng một lát, Vua tiếp:

- Trẫm muốn nghe lời Ngài dạy, và nếu như có người nào khác đến, thì Trẫm làm sao biết được người đó là bậc trí?

Hiền Nhân đáp:

- Chỗ vấn đáp người trí bao giờ cũng khác xa kẻ tầm thường, không lời nói nào của họ mà không phải là lời nói lành. Bậc thầy bao giờ cũng chính đáng, và những đức tính này, chứng tỏ rằng kẻ ấy là bậc trí giả. Nhân từ, mền mỏng, cẩn thận, chắc thật, ôn hoà, nhã nhặc, lời nói hoạt bát, và hay hâm mộ các việc lành, Bệ hạ đừng có nghi nan gì nữa. Nghe lời nói, thấy việc làm của họ thì biết là tâm và khẩu giống nhau. Xem cách cư xử, vẻ đi đứng của họ mà biết là không giả dối. Nghiệm việc họ làm, cách ăn mặc, cách làm lụng cũng dư biết là bậc trí tuệ. Đàm luận với người trí phải cho vừa ý họ, mà muốn cho vừa ý họ thì thiệt là khó.

- Trẫm muốn tôn thờ người trí mà đừng làm mất ý họ thì phải làm sao?

Hiền Nhân đáp:

- Kính mà đừng khinh. Nghe lời dạy phải làm theo. Vì chỗ hiểu biết của người trí rất đúng. Bao giờ họ cũng thể theo chánh đạo và không có tâm tham cầu, lại có thể suy xét rõ được việc quá khứ, hiện tại và tương lai. Tầm mắt của bậc trí giả rất rộng, họ thấy rõ muôn vật trong không gian và thời gian đều chỉ là biến hiện, muôn pháp đều quay về nơi nhất điểm, không tịch bản nhiên. Kẻ trí giả nhìn thấy rõ ràng đời là một sự biến đổi tan thương, trẻ trung rồi sẽ già nua, cường tráng rồi sẽ suy nhược. Có sống thì sẽ có chết. Giàu sang như mây nổi, đều là vô thường cả. Cho nên, lúc an ổn phải nghĩ đến khi nguy ngập, khi hưng thịnh thì phải nghĩ đến lúc vô thường. Người lành thì kính mến, người ác thì phải lánh xa. Nếu có giận hờn ai thì nên trừ bỏ, đừng vì thế mà gây ác, hại người. Nhu hoà mà khó xâm phạm, yếu đuối mà khó thắng. Người trí như vậy đó, ta không nên khinh thường.

- Trẫm hết sức cung kính, tôn sùng người trí, như thế có phước chi chăng?

- Người trí theo phép thánh hiền thường làm việc nhân từ và ưa dạy dỗ kẻ ngu muội trở nên sáng suốt như họ. Người trị nước thì nên ban bố ân huệ cho kẻ làm lành. Kẻ tu hành thì lo dẫn dắt mọi người về nơi chánh đạo. Quốc gia có cấp nạn, thì cùng nhau đàm luận lo toan, tới lui, phải biết thời thì khỏi phải bị nghi ngờ oán trách. Tuy có ân trọng đức lớn với người, nhưng đừng có mong cầu người báo đáp. Thờ người trí thì được phước và trọn đời không mắc phải tai nạn. Bệ hạ đừng có nghi nan. Pháp chánh trị không nên trái với lý đạo. Dạy dân làm lành thì càng ngày càng đem lại lợi ích cho đất nước.

Đức Vua than thở:

- Có ai nữa để cầm Hiền Nhân lại giúp ta. Trời ơi, thật lòng Trẫm thật sầu thảm, hoảng hốt như kẻ điên cuồng.

Vua bèn rơi luỵ, khóc lóc, đến trước Hiền Nhân sám hối, cầu xin xá tội.

Hiền Nhân đỡ:

- Ví như người không có tài bơi lội, thì không nên xuống dưới nước sâu. Biết người cừu hận với ta, ta cũng không nên hại họ, Đời có thân hậu nhau, rồi có gây gỗ nhau. Có gây gỗ nhau, rồi sau lại xin lỗi. Tuy hoà giải khéo lắm, nhưng mà chi bằng trước kia đừng gây gỗ là hơn. Nay người lành mà Bệ hạ không ban thưởng, trở lại nghe dèm xiểm , Hiền Nhân này cũng như con chim bay, không nhất định đậu ở cành nào. Đạo pháp của Hiền Nhân không thể lẫn lộn với lỗi lầm như thế, để mất chỗ thanh cao quý giá, cũng như lửa cháy ngoài đồng trống, những cây gần bên sẽ bị cháy xém. Thấy chỗ có nước xoáy là thuyền quay, thấy độc trùng là hại người. Vì vậy, Hiền Nhân muốn tùng sự với người trí để khỏi bị ngu hèn quấy nhiễu. Hiền Nhân này đã rõ rằng, cây cỏ mỗi thứ mỗi khác. Loài chim muông cũng thế, Bạch Hạt thì lông trắng, chim Quạ thì lông đen. Nay Hiền Nhân khác mà ai kia cũng khác, nên Hiền Nhân này không muốn lưu lại trong Hoàng cung nữa. Đem cái áo lụa đẹp, mặc cho người nhà quê cày ruộng thật là vô ích. Vì sao? Người nhà quê ấy, chỉ quen bùn đất làm gì biết mặc áo lụa đẹp, mà có mặc cũng chỉ làm hư. Ở nhân gian, có một thứ cây gọi là Phản lệ, người chủ trồng nó thì không được ăn trái, còn có kẻ muốn hái trộm, thì trái lại sinh ra cho mà hái. Bệ hạ cũng như cây ấy. Người giúp nước được an ổn lại hất hủi, đuổi xô. Còn kẻ nịnh thần gian dối, phá tan việc triều chánh, lại cầm ở lại cho ăn bổng lộc. Khách ở lâu, chủ nhà sinh nhàm chán. Nên Hiền Nhân này phải đi đây!

Nhà Vua kính cẩn thưa:

- Mạng người rất trọng, cúi xin Ngài mở lòng từ nghĩ thương đến. Trẫm nay muốn đem thân mạng tôn thờ Ngài hơn xưa.

Hiền Nhân đáp:

- Bệ hạ nói vậy, nhưng cũng chưa chắc gì làm được. Ý phu nhân rất độc ác. Hiền Nhân này không nên ở lại làm gì. Hiền Nhân là vị sa môn mang bình bát khất thực, tự vui và dứt trừ tham vọng, giữ trọn giới luật của đạo và xa lìa tất cả tội lỗi.

Nhà Vua khẩn khoản:

- Ngài đã quyết định, Trẫm không thể cản ngăn. Nhưng xin Ngài chớ đoạn tuyệt. Cúi mong Ngài một phen trở lại, để lòng Trẫm khỏi ân hận.

- Nếu như Bệ hạ và Hiền này đều mạnh giỏi thì có lúc gặp nhau. Hiền này muốn vào núi để tu dưỡng tính tình, rèn thêm chí cả. Gần nhau, để mà nghĩ đến chuyện ác hại nhau thì chi bằng xa nhau, mà nhớ nhau trong tâm niệm lành. Người trí nghe thí dụ cũng đủ rõ. Nay, Hiền Nhân này xin đem một câu chuyện để thí dụ Bệ hạ nghe. “Như người lấy mật xoa vào lưỡi dao, đưa cho con chó liếm, vì tham chút ngọt nên bị đứt lưỡi, mà chó không biết đau đớn. Nay bốn quan cận thần cũng vậy, chỉ nói ngon ngọt ngoài miệng mà trong tâm dường như dao bén. Vậy Bệ hạ phải đề phòng cho lắm. Và từ đây về sau, nếu gặp những sự kinh hãi, Bệ hạ thường nhớ đến Hiền này, thì kinh sợ sẽ tiêu tan. Loài chim Cú, chim Mèo thì ưa ở nơi bụi rậm. Chuột, Bọ thì ưa núp dưới đống rơm, đống rác. Chim chóc thì đậu ở trên cành, mà chỉ có con Hạt là ưa ở gần ao nước đục. Mỗi vật đều có một tánh riêng, chí nguyện bất đồng. Sự ưa thích có khác, Hiền Nhân này mến đạo, Bệ hạ thì ưa việc trị dân. Đó là sự sai khác. Những vật thô xấu, cũng đều có chỗ cần dùng, không nên phí bỏ tồi tàn. Hạng người nào, dù bần tiện, ngu hèn đến đâu, ta cũng không nên hất hủi, họ đều là những người hữu dụng. Dụng nhơn như dụng mộc. Bệ hạ phải hiểu như vậy. Hiền này cũng đã biết người, biết lời nói, biết ý nghĩ của họ thế nào rồi. Con chim ban đầu đậu ở cành thấp, sau nhảy lên nhánh cao. Hiền Nhân thấy chó Tân kỳ sủa, biết rằng, không ngoài thì trong, đã có sắp đặt mưu mô gì đó, nên trong lòng chán ngán. Thôi, để Bệ hạ chuộng mới quên cũ. Hiền này xin đi.

Nói xong, liền đứng dậy, mang bát, chống tích trường ra khỏi thành.

Đức Vua cùng Hoàng hậu khóc lóc đi đưa, người trong nước lớn, nhỏ không ai là không kêu rêu, oán trách. Nhà Vua ủ rủ theo sau Hiền Nhân hỏi bằng một giọng buồn rầu.

- Ngài đi thì Trẫm còn biết tin nhờ ai nữa.

Hiền Nhân đáp:

- Có người con của chị Hiền, rất là hiền lành. Bệ hạ nên đàm luận cùng nó. Lúc nào rãnh, bệ hạ hãy cùng nó ra tuần hành trong nước và nghe những câu ca dao của dân chúng, nó có thể biết được trong nước thịnh suy, còn mất.

Nhà Vua đáp:

- Trẫm xin nghe lời Ngài dạy.

Rồi Vua cùng đình thần và nhân dân làm lễ Hiền Nhân, rồi tiễn người ra khỏi thành quá một đoạn đường.

Từ ấy về sau, nhân kẻ trung chính đi rồi, thì kẻ loạn thần tha hồ tung hoành gian nịnh. Ngoài thì bốn quan cận thần cậy thế bắt ép lương dân, trong thì Hoàng hậu dùng thói yêu nghiệt, làm nhà Vua mê hoặc không còn lo nghĩ đến việc nước, chỉ dâm lung, ưa vui ngày đêm vùi thân trong say đắm. Quan liêu cầm quyền tự do thâu thuế, bắt ép nhân dân không một chút từ tâm, nhân đạo. Kẻ lấy thuế chợ mà không thèm nhìn món đồ, người mạnh lấn hiếp kẻ yếu, bóc lột tàn sát lẫn nhau, không kể gì đến pháp luật. Có kẻ lại bắt con gái của người về làm nô lệ, tỳ thiếp. Thân thuộc ly tán, tìm đường trốn tránh, tản lạc, mỗi người sống vất vưởng mỗi nơi, tai hoạ liên miên mà nhà Vua không bao giờ biết đến. Mưa gió không phải thời, trồng trọt mất mùa, nước loạn dân nghèo, sự đói khó đầy đường, tiếng than van oán trách phổ vào câu ca dao cảm động đến quỷ thần. Nhân dân sầu khổ, lo sợ chết không biết bao nhiêu. Kẻ sống vừa than khóc vừa đi, không một ai không nhớ tưởng và mong cầu Hiền Nhân độ trước.

IV.

Hiền Nhân như chim Ưng, Vua của loài chim dẹp trừ được người gian ác, lại sẳn có lòng nhân từ thương xót mọi loài, bây giờ còn người đâu nữa để cứu yên lòng dân và cứu muôn ngàn tai ách. Con của chị Hiền Nhân tên là Đạo Nhân, sau khi đi qua quận huyện khác trở về, thấy trong nước loạn lạc, xóm làng hư hoại, nhân dân cùng khốn, bèn vào cung tâu với nhà Vua:

- Tâu Bệ hạ, các quan đại thần làm việc bất chính, buông kẻ trộm cướp, bắt giết kẻ vô tội, tàn hại dân gian hết đường vô nhân đạo. Muôn dân oán than, quỷ thần giận dữ nên gieo nhiều tai hoạ. Đâu đâu cảnh khổ cũng tràn lan, mà Bệ hạ thì không hay biết gì cả. Nếu Bệ hạ không sớm trừ bọn loạn thần gian ác ấy, thì sau này sẽ không còn một lương dân.

Nhà Vua nghe nói, kinh hãi, hoảng sợ đáp:

- Trẫm đã dùng bốn tên loạn thần phá hại nước nhà, chẳng khác gì thả chó sói trong bầy cừu vô tội. Trẫm chắc thế nào dân chúng cũng bị khốn ách. Trẫm đã buông cương mặc cho con ngựa điên lôi kéo cỗ xe trị quốc, thế nào nó cũng kéo xe xuống hố sâu. Ngài đến đây thức tỉnh Trẫm và bảo Trẫm như thế, bây giờ Ngài có cách gì dạy Trẫm để trị an xã tắc được không?

Đạo Nhân thưa:

- Từ khi cậu tôi ra đi đến nay, trong nước bị rối loại luôn, tất cả đều do bọn gian thần, Bệ hạ phải trù tính phương kế gì để hưng phục lại giang sơn. Nước nhà còn có thể hưng phục được, xin Bệ hạ hãy cùng thần du hành một phen, để chính mắt Bệ hạ được thấy, chính tai Bệ hạ được nghe những nổi thống khổ, rồi mới biết thế nào là đúng sự thật.

Nhà Vua liền cùng Đạo Nhân cải trang ra đi để dò xét tình hình trong nước. Vừa ra khỏi thành thì thấy một toán phụ nữ xiêm y rách rưới, vừa đi vừa khóc. Đạo Nhân thấy thế liền hỏi:

- Các chị, tại sao mà khổ sở rách ruới như vậy? Sao không lo làm ăn? hoặc có khó khăn lắm thì đi lấy chồng để nhờ chồng. Tuổi tác các chị đã lớn rồi kia mà.

Một người trong bọn trả lời:

- Cũng bởi vì nhà Vua cả. Phải chi nhà Vua rách rưới nghèo đói như chúng tôi, thì mới bỏ ghét.

Đạo Nhân bảo:

- Các chị nói như thế là không đùng rồi. Vì nhà Vua là bậc cao sang, chỉ lo những việc to tác, đau có thì giờ lo cho các chị được. Các chị phải tự đi làm mà sinh sống lấy chứ.

- Không, không phải vậy đâu! Vì Vua trị nước không minh, nên ở trong nước thì đói rách và loạn lạc. Ngày thì khốn với bọn quan lại tham ô vơ vét. Đêm thì khốn với bọn trộm cắp tứ tung. Áo không đủ mặc, cơm không đủ ăn, vì thế mà ai thèm cưới gả chúng tôi nữa chứ.

Đi một quãng nữa, nhà Vua gặp một bà già, áo không kín thân, hình hài gầy yếu, mắt loà sờ soạng, vừa đi vừa khóc lóc.

Đạo Nhân hỏi:

- Bà già lo lắng gì mà khóc vậy?

Bà già ngẩng lên đáp:

- Ôi, vì nhà Vua cả. Phải như nhà Vua mà mù như lão đây thì mới đáng kiếp. Lão sung sướng lắm vậy.

Đạo Nhân bảo:

- Bà nói như vậy là lầm rồi. Hễ già thì mắt mờ. Nhà Vua có lỗi chi đâu!

Bà lão phân trần:

- Đêm thì bị cướp, ngày thì bị quan lại hiếp bức, phải chịu nghèo đói, nên lão đây mới phải hái rau, lượm củi đổi gạo để nuôi sống, đạp phải độc trùng, vướng phải độc khí nên mới bị mù què như thế này đây! Vậy thì không phải lỗi của nhà Vua hay sao?

Vua tôi lại đi đến một quãng đường, thấy có người đàn bà đang lom khom nặn sữa bò, con bò đá một cái, người đàn bà ngã lăn xuống đất, lòm còm bò dậy mắng:

- Phải chi mày đá Hoàng hậu, vợ Vua một đạp như vậy cho bỏ ghét, mày đá tao làm gì.

Đạo Nhân liền hỏi:

- Tự con bò dữ đạp bà, chứ Hoàng hậu có tội lỗi gì.

- Không lỗi sao? Nhà Vua bất chính. Vợ Vua sui xiểm . Nước nhà mới rối loạn, không sớm ngăn trộm cướp để nó bắt bò lành của tui, chỉ để lại một con bò dữ, vắt sửa nó là nó đạp một cái đau điếng người, tại nhà Vua chớ ai nữa.

Đạo Nhân bảo:

- Tại bà không biết nặn sữa, mới bị nó đá.

Người đàn bà đáp:

- Không phải vậy đâu. Nếu nhà Vua ở chính thì Ngài Hiền Nhân sẽ ở lại đây, nước nhà đâu có bị loạn lạc như vậy.

Đi một lát nữa đến khoảng đồng ruộng, nhà Vua thấy một con chim đang mổ một con ếch. Con ếch lún vào bùn mắng rằng:

- Phải chi mày mổ Vua một cái như thế, thì tao mới thích cho. Mày đừng mổ tao.

Đạo Nhân bảo con ếch:

- Ngươi bị con chim mổ, chứ đâu lỗi ở nhà Vua. Nhà Vua đâu có giữ hộ cho ngươi được.

Con ếch đáp:

- Tôi không muốn nhà Vua giữ hộ tôi đâu. Nhà Vua không ân nhuận. Việc chính trị bất bình đẳng. Bỏ phế việc cúng tế, bỏ phế việc dẫn thuỷ nhập điền. Bởi vậy, trời hạn nứt khô, thân tôi phải bày ra để cho con chim nó mổ đây nè.

Con ếch lại than:

- Nếu nhà Vua biết chấp giữ quyền chính, thì bỏ một người ác, lợi cho một nhà. Bỏ một nhà ác, lợi cho một làng. Rồi sẽ đến cảnh một xã hội, quốc gia thịnh trị. Vua không biết chấp giữ quyền chính, nên nhân dân khắp sở, thiên hạ kêu ca.

Liền đó, Đạo Nhân tâu Vua:

- Xin Đại vương xét kỹ, trăm họ vô tội, khổ sở than khóc cảm động đến cả quỷ thần, đến nỗi con ếch mà còn thốt lời như vậy, chắc Đại vương cũng đã thấy rồi. Vậy xin hãy đuổi kẻ ác, để kiến thiết quốc gia lại trên nền tản thiện chánh, để muôn dân hồi đầu trở lại. Tâu Đại vương, bây giờ bắt đầu gieo giống lúa ở ruộng, gặp mưa thuận gió hoà, thì lo gì mùa màng không trúng.

Vua hỏi:

- Vậy theo ý Ngài, thì nên giao phó trách nhiệm này cho ai?

- Bệ hạ phải mau mời Ngài Hiền Nhân trở về, vì Ngài là người rõ biết thời cơ, nếu trở về thì trong nước sẽ trở lại được bình an.

Nhà Vua cùng Đạo Nhân trở về cung, Ngài gọi một sứ thần lên căn dặn:

- Nhà ngươi hãy vì Trẫm vào núi rước Ngài Hiền Nhân về, và nếu Ngài không về, ngươi sẽ thưa: Hoàng thượng nay đã tự biết ăn năn, muôn dân oán trách, nên Hoàng thượng lo buồn không ăn ngủ được và đang mong mỏi Ngài về, xin Ngài mở lòng nhân từ thương xót chúng sanh. Nói như thế, Ngài biết trong nước loạn lạc và sẵn lòng thương xót, chắc sẽ trở về.

Sứ thần vâng mệnh ra đi, trãi qua mấy hôm len lõi trong núi rừng, mới đến được chỗ Ngài Hiền Nhân ở. Sứ thần cúi đầu làm lễ và thưa:

- Kính bạch Ngài, nhà Vua ân cần, hết lòng cung kính, tự biết mình tội lỗi quá nặng, làm sai ý thánh nhân, và để cho nước nhà loạn lạc, trăm họ cùng khốn, nên đang mong mỏi Ngài trở về, nhà Vua khóc lóc, nghĩ nhớ đến Ngài, không ăn không uống gì được cả. Cúi xin Ngài mở lòng thương xót nhà Vua một phen nữa, kính thỉnh Ngài về.

Hiền Nhân nghe nói, thương xót nhân dân, nên sửa soạn theo sứ giả trở về. Dọc đường thấy con khỉ chết khô, Ngài liền lột hết da để làm toạ cụ. Nhân dân trong nước nghe Hiền Nhân đã trở về đều ra tận biên giới nghênh tiếp và mời Ngài về lại Tịnh xá ngoài thành. Nhà Vua mặc triều phục, ra đến tận Tịnh xá yết kiến, làm lễ Ngài. Sau khi hỏi han, Vua ngồi lại một bên, vòng tay tạ tội, thưa với Hiền Nhân:

- Trẫm vì sơ xót, suy nghĩ không đến nơi đến chốn, nên làm hại nhân dân trăm họ oán trách, nay Trẫm một lòng chí thành cầu sám hối, xin Ngài tha thứ cho Trẫm bao nhiêu tội lỗi lầm lạc.

Hiền Nhân đáp lễ:

- Người có tội mà biết sám hối là hay lắm.

Rồi thấy bốn quan cận thần, kề tai nói nhỏ, thầm thì với nhau. Hiền Nhân bảo:

- Các ngươi là người vô tội, sao không nói chuyện công nhiên, cần gì phải nói to, nói nhỏ.

Bốn quan cận thần nổi giận:

- Ông làm sa môn, lòng những mong mỏi phước trời, người người gọi ông là ông Hiền, lẽ ra ông không nên giết con khỉ mà lột da như vậy.

- Các người mê hoặc lấy mình, không phân biệt cái gì là chân chính, không phân biệt cái gì là tà nguỵ. Các người làm việc ác đức, cái đó Trời Phật đã biết rằng khổ vui đều có trong luật Nhân - Quả không thể tránh được. Làm việc ác, tội ác sẽ theo đòi. Làm việc lành quả báo tốt sẽ đền trả, trọn đời không mất. Hoạ - Phúc tự mình. Kẻ ngu tưởng đâu là xa cách. Bọn ngươi lấy việc ta lột da mà nạn rằng ta giết khỉ, điều ấy có giống việc gian ác, giết hại của các ngươi không? Lại cứ nói mạng tại trời, làm lành không phước, làm ác không hoạ. Phải biết hoạ phước rõ ràng, như âm vang theo tiếng, bóng theo hình, chứ không phải hoạ phước từ trên trời rơi xuống. Các ngươi làm ác mà không tự biết, muốn che giấu, nhưng nào có giấu được, lại lấy sự chê bai ta, mà cho là đắc sách. Trong bọn ngươi há chẳng có một người nói rằng: Hễ người chết thì phần hồn tiêu diệt không sanh trở lại nữa. Lời nói ấy có phải là lời của bậc thánh nhân chăng, hay là tự ý ngu muội của các ngươi bịa đặt ra. Các ngươi muốn làm chuyện ác rồi trở lại bảo rằng làm ác không tai hoạ, làm lành không được phước. Đó có phải là lời nói gạt người, để che đậy tội lỗi của mình không? - Kìa hiện tượng của vũ trụ rõ ràng, kia Nhật Nguyêt và tinh tú đó, các ngươi bảo là ai tạo ra nó vậy.

Bốn quan cận thần nghe nói, làm thinh không còn biết trả lời sao nữa.

Hiền Nhân tiếp:

- Tất cả hiện tượng trong vũ trụ đều do nghiệp lực tội phước, làm lành làm ác, đều có quả báo như bóng theo hình. Người chết bỏ xác thân nhưng không bỏ được nghiệp hành. Gieo giống, tuy hạt lúa thối mục dưới đất, nhưng sau này sẽ sanh ra nhánh lá và kết hạt trên ngọn. Thắp đèn, tim dần dần lùn, nhưng lửa vẫn đỏ mãi. Hành nghiệp tội phước vẫn còn luôn luôn như người thắp đèn viết thơ, rồi tắt đèn nhưng chữ vẫn còn. Hồn thần tuỳ hạnh nghiệp chuyển sinh đời khác, không hề gián đoạn. Các ngươi làm ác mà tự cho là cao cả, cũng như người giết cha mẹ mà lại có thể cho là vô tội sao?

Bốn quan đáp:

- Một nhánh cây còn không nên hái lá của nó thay, huống chi giết cha mẹ mà cho là vô tội!

Hiền Nhân đáp:

- Và bọn ngươi nạn ta, nhưng chính thực là ta lột lấy da con khỉ chết. Vì khỉ chết, chứ nào ta có giết nó mà lột da. Còn bọn ngươi vu oan cho người, tội ác đó sẽ tính thế nào? Huống chi lại còn chủ trương tà quấy, bề ngoài giả là làm lành mà bên trong lại ẩn khuất làm việc gian ác. Cũng như vàng giả, bề ngoài thì nước vàng, mà trong thì toàn đồng. bề ngoài diện mạo tốt đẹp, mà trong thâm tâm toàn là xàm tặc. Thiệt chẳng khác gì chó sói lạc vào bầy dê, ngấm ngầm ăn hết bầy dê, mà người giữ dê không hề hay biết. Kẻ ác trong đời lắm khi cũng tự xưng đạo đức, giả khổ hạnh, cùng diễn giải kinh giới, nhưng bên trong chuyên hành tà xiểm, dối trá để cầu mong danh lợi. Người ngu không biết quay về tin phục, rồi như nước sông ngập lụt chảy tràn đầy dẫy, chưa kịp rút về bể cả, làm hại biết bao nhiêu người. Chỉ có bậc thánh nhân mới có thể cứu giúp thiên hạ, cải bỏ ác tục, sửa sang việc lành, ai ai cũng đều nhờ cậy, nếu cho làm lành không phước, làm ác vô hại, thì các bậc cổ thánh để lại bao nhiêu kinh điển làm chi và truyền trao gươm báu cho vua làm chi. Hành nghiệp đều có quả báo rõ ràng. Làm dữ bị tai hoạ, mọi người đều ghét. Không mau thì lâu, tai hoạ ấy sẽ đến. Làm việc ân đức, tuy ẩn kín nhưng sau này sẽ bày ra và phước quả sẽ đem lại cho mình. Vậy nên trong nước có Vua, Vua phải thuận theo phép đạo. Uỷ nhiệm vụ cho người hiền, phó thác việc làm cho kẻ tài trí, ban thưởng người lành, trừng phạt người gian ác. Bánh xe lăn tròn không ngừng. Hành nghiệp cứ tuỳ theo đấy thọ sinh về nơi lành nơi giữ. Phải tin chắc có tội phước, đừng làm điều gian dối. Phải hết sức cẩn thận lánh xa những kẻ ác và biết ăn năn tội lỗi. Nếu mọi người đều lành thì bản tánh và quả báo sẽ đều lành đẹp giống nhau. Song, vì người làm ác rất nhiều nên nhân quả bất đồng. Kẻ sống lâu người chết yểu, kẻ nhiều bịnh người ít bịnh, kẻ xấu xa người tốt đẹp, kẻ nghèo hèn người giàu sang. Kìa, những người ngu, đui, điếc, câm, ngọng, kẻ mù què tàn tật, trăm điều đều do đời trước gây ác nhân mà nay gặp lấy ác quả. Còn đức độ trung chính, hiền từ nên là trí tuệ, đế vương, hào phú và muôn sự hạnh phúc. Như thế là nhân quả rõ ràng. Sao lại bảo rằng không! Xin hãy suy nghĩ kỹ càng, đừng lạc lầm vào tà đạo.

Hiền Nhân giảng xong, Vua cùng quần thần và tất cả nhân dân không một ai là không hiểu rõ và vui mừng. Hiền Nhân lại nói tiếp:

- Và nay, Hiền Nhân này xin nói một sự tích: Thuở xưa, có một ông Vua tên là Cẩu Lạp, có một cái ao, trong ấy, nuôi nhiều thứ cá ngọt, vì cá ngọt ít xương mà ngon lắm, nên nhà Vua cử một quan giám ngư (quan xem cá) để giữ gìn ao cá. Mỗi ngày dâng Vua tám con, nhưng quan giám ngư, mỗi ngày cũng ăn chùng, ăn lén mất tám con. Vua biết cá mất, nên cử tám quan giám ngư nữa để cùng nhau giữ gìn ao cá. Xong, tám vị quan giám ngư tùng đảng với nhau, mỗi ngày, mỗi người đều ăn lén hết tám con. Té ra, người giữ cá nhiều chừng nào thì cá lại mất nhiều chừng ấy. Nay, Bệ hạ đây cũng vậy, giao nhiệm vụ cho nhiều người, thì nước nhà càng thêm rối loạn, cũng như kẻ hái trái non, ăn đã không có mùi vị gì, mà lại làm mất giống. Vua trị nước mà không dùng kẻ hiền, đã thiệt hại cho dân, mà sau này tiếng tăm cũng mất và phước phần đều không. Trị nước bất chính làm cho thiên hạ có tâm tranh đoạt, cũng như muốn sửa sang và hưng nghiệp gia sản mà không chịu để tâm, dụng chi thì của cải mỗi ngày mỗi hao bớt đi. Nước có tướng giỏi binh nhiều mà không chịu tập dượt chiến trận, không lo lắng kiến thiết nước nhà thì nước ấy sẽ bị hèn yếu. Làm Vua không kính đạo đức, không tôn thờ bậc cao, thì hiện tại không người giúp đỡ và tương lai không gặp được phước lành. Hằng ngày giết hại muôn họ kêu ca, thì tai hại thường xảy ra tới tấp, chết đi để tiếng xấu muôn đời. Theo chính pháp, trị dân thì được lòng người. Kính thờ bậc tôn trưởng, yêu mến trẻ thơ, hiếu thuận cha mẹ, vâng làm việc lành thì hiện tại an ổn và lai sinh thọ phước. Làm việc trung chính, cũng như đi thẳng đường, lấy việc trung chính làm cội gốc thì mọi người đều khâm phục, như thế sẽ gây được hạnh phúc thái bình, lại phải sáng suốt lượm lặt những lời xưa, để làm kinh nghiệm cho đời này. Động tịnh cho biết thời. Ân oai cho có lý. Ban bố ân huệ cho nhân dân, bố thí nên bình đẳng. Được như thế thì đời này sẽ an ổn vui vẻ. Sau này sẽ quyết tu chứng đạo giác ngộ.

Chúng hội nghe Ngài Hiền Nhân dạy đều vui mừng vô tay khen ngợi. Nhà Vua liền đứng dậy cúi đầu thưa rằng:

- Nay Trẫm được nghe lời Ngài dạy, cũng như cơn gió mạnh thổi tan mây mù, vậy xin Ngài mở lòng từ bi, nghĩ đến quốc gia, dạy bảo quốc dân và giúp đỡ Trẫm trị dân như trước.

Hiền Nhân liền đứng dậy theo Vua về cung cùng luận bàn chính sự. Bốn quan cận thần rồi sau bị đuổi. Hiền Nhân giúp nước, ân huệ thấm nhuần, gió mưa hiệp thời, mùa màng rất trúng. Nhân dân đều vui vẻ, bốn biển một nhà. Trên dưới hoà thuận, đều chung sức gây lại một cuộc thái bình, thạnh trị.

---o0o---

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét