18 tháng 9, 2017

Chứng kiến 12.000 người chết trong suốt cuộc đời, người đàn ông đã rút ra được 10 bài học vô giá

Người ta thường nhận ra những điều quan trọng trong cuộc sống trước khi qua đời. Với Bhairav Nath Shukla, nhìn thấy hơn 12.000 người đã qua đời ngay trước mắt mình khiến ông có được 10 bài học đắt giá về cuộc đời.

Trong sâu thẳm trái tim của những tín đồ đạo Hindu, nếu trút hơi thở cuối cùng tại Varanasi, Ấn Độ, họ sẽ đạt được một thứ gọi là “Kashi Labh” – “giải thoát khỏi vòng luân hồi theo luật nhân quả”.

Kashi Labh Mukti Bhawan là một trong 3 nhà nghỉ trong thành phố Varanasi nơi người ta tìm đến để chết. Hai nơi khác là Mumukshu Bhawan và Ganga Labh Bhawan. Được thành lập từ cách đây hơn 100 năm, Mukti Bhawan rất nổi tiếng trong thành phố và trên khắp Ấn Độ.

Bhairav Nath Shukla là quản lý của Mukti Bhawan trong suốt 44 năm. Ông đã nhìn thấy những người giàu và cả người nghèo tới đây trong những ngày cuối cùng của cuộc đời. Họ chờ cái chết đến và hy vọng tìm được chút bình yên. Shukla cũng cầu chúc bình yên cho họ. Ông ngồi trên một chiếc ghế gỗ ngoài sân, dựa vào bức tường gạch đỏ và kể lại 10 bài học cuộc đời từ 12.000 cái chết mà ông đã chứng kiến trong suốt thời gian làm quản lý ở đây.

1. Hãy giải quyết mọi mâu thuẫn trước khi kết thúc cuộc đời

Shukla nhớ lại câu chuyện của Shri Ram Sagar Mishr, một học giả Sansckrit. Mishr là anh cả trong gia đình và thân thiết với người em út nhất. Năm tháng qua đi, hai người cãi nhau.

Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, Mishr đến nhà nghỉ để thuê một căn phòng. Ông nói rằng ông biết chắc mình sẽ qua đời vào ngày 16. Trước đó 2 ngày, ông có nói: “Hãy bảo em út đến đây với tôi. Nỗi đau này khiến trái tim tôi nghẹn ngào. Tôi muốn giải quyết mọi mâu thuẫn trước khi rời đi”.

Đến ngày 16, cậu em trai xuất hiện. Mishr nắm tay em mình và bảo rằng hãy đập bỏ bức tường chia đôi căn nhà đi. Ông xin em mình tha thứ. Cả hai người nghẹn ngào khóc rồi đột ngột, Mishr bỗng nín lặng. Khuôn mặt ông bình thản vô cùng. Ông đã ra đi rồi…



“Người ta mang quá nhiều những gánh nặng trong cuộc đời và muốn buông bỏ vào giây phút cuối đời. Điều quan trọng không phải cuộc đời bạn không có mâu thuẫn mà biết cách vứt bỏ nó đi càng sớm càng tốt”, Shukla cho biết.

2. Sống đơn giản mang đến ý nghĩa cho cuộc sống

“Người ta sẽ chẳng bận tâm đến những món ăn đắt tiền khi biết rằng, rồi cuộc sống của mình cũng đi về đâu. Đến cuối cuộc đời, điều phủ bóng lên tâm hồn của nhiều người khiến họ tiếc nuối nhất là họ nên sống một cuộc sống đơn giản hơn”.

Một cuộc sống đơn giản, như những gì ông giải thích, có thể có được bằng đừng ham muốn nhiều. Chúng tôi bỏ ra nhiều thứ để tích lũy nhiều thứ khác, rồi lại tạo ra những nhu cầu mới. Tìm được niềm vui trong những điều ít ỏi chính là bí mật để có nhiều hơn.

3. Biết nhìn nhận những mặt tốt và xấu của mỗi người

Shukla cho rằng mỗi người đều có những mặt xấu và mặt tốt. Thay vì chỉ trích những người xấu, chúng ta phải thấu đáo nhìn ra những điểm tốt của họ. Quá tập trung vào cái xấu xa của một người khiến chúng ta trở nên nhỏ nhen, ích kỷ với họ. Nếu bạn tập trung vào những phẩm chất tốt của họ, bạn sẽ hiểu và thậm chí yêu thương mọi người nhiều hơn.

4. Đừng ngại nhận sự giúp đỡ từ người khác

Nếu có thể tự làm mọi việc, bạn sẽ cảm thấy mình giỏi giang. Tuy nhiên, điều đó sẽ không giúp bạn học hỏi được từ những người khác. Shukla tin rằng chúng ta phải biết giúp đỡ người khác và quan trọng hơn, dũng cảm tìm sự giúp đỡ của người khác khi cần.


Mỗi người trong đời đều có gì đó để ta học hỏi. Kiến thức của họ có thể giúp đỡ chúng ta nếu chúng ta thực sự mở lòng mình.

5. Tìm thấy vẻ đẹp trong những điều bình dị nhất

Mukti Bhavan chơi những bản nhạc truyền thống và hát khoảng 3 lần/ngày. “Một vài người”, ông nói, “dừng lại và thưởng thức những giai điệu từ nhạc cụ mà họ chưa bao giờ nghe bao giờ. Họ cảm nhận được nó và thấy vẻ đẹp ở đó”.

Những người quá cay nghiệt hay kiêu căng sẽ rất khó tìm được niềm vui cuộc sống từ những điều nhỏ bé. Đơn giản là vì tâm hồn họ luôn đầy ắp những thứ tưởng chừng như quan trọng hơn.

6. Sự chấp nhận chính là sự giải phóng

Phần lớn chúng ta đều tìm cách lẩn trốn những sự thật trong cuộc sống. Sự phủ nhận này đã nuôi dưỡng những cảm xúc nguy hiểm trong mỗi chúng ta. Chỉ khi bạn biết chấp nhận tình huống, lúc đó bạn mới có thể tự do quyết định sẽ phải làm gì sau đó. Nếu không biết chấp nhận, bạn sẽ luôn chìm trong cõi mông lung.

Khi bạn biết chấp nhận vấn đề trong cuộc sống, bạn sẽ có dũng cảm để tìm ra câu trả lời.

7. Khi bạn tìm ra mục tiêu cuộc đời, hãy cố gắng vì nó

Rất nhiều người biết được mục tiêu của cuộc đời họ là gì; nhưng họ không làm gì để hiện thực hóa, khiến nó thành sự thật. Nhìn ra được điều gì muốn làm và cố gắng phấn đấu vì nó sẽ giúp bạn tìm được ý nghĩa thực sự của cuộc đời mình. Hãy hành động và bắt đầu với những điều thực sự quan trọng.

8. Thói quen là những thứ có giá trị trong cuộc sống

Shukla khuyên mọi người nên cố gắng duy trì những thói quen tốt trong cuộc sống và biến nó thành giá trị thực sự. Việc gây dựng những thói quen sẽ cần nhiều thời gian và công sức. “Nó sẽ giống như việc bạn luyện tập cơ bắp và phải rèn luyện hàng ngày”.

9. Hãy tìm ra ra thứ mà bạn thật sự muốn học

Trong kho tàng kiến thức khổng lồ, chúng ta chỉ có thể tiếp thu được một phần.

“Bài học quan trọng với mỗi người là hãy chọn cái gì mà thực sự có giá trị với bản thân mỗi người”, Shukla chia sẻ. Mọi người có thể muốn bạn học cái này cái kia chỉ bởi vì nó khiến họ hứng thú. Tuy nhiên, điều bạn cần làm là tìm hiểu xem thực ra bạn muốn làm gì.

10. Chúng ta không bỏ bạn bè, chỉ là rời xa những suy nghĩ không phù hợp trong họ

Sẽ rất khó để chúng ta quên đi những người mà chúng ta từng yêu quý, thân thiết. Tuy nhiên, trong mọi mối quan hệ, đôi khi sự không hiểu ý nhau, bất đồng quan điểm suy nghĩ sẽ khiến chúng ta dừng liên lạc. Điều đó không có nghĩa rằng, bạn sẽ không còn quan hệ gì với người đó nữa. Nó chỉ đơn giản rằng bạn không muốn cái suy nghĩ kia ảnh hưởng đến mối quan hệ của 2 người và khiến mọi thứ trở nên tồi tệ.

Chúng ta “ly dị” với suy nghĩ, không phải với con người.
------------
SKYE

Tiền và gia đình, điều gì quan trọng hơn? Đây là câu trả lời của người Mỹ, châu Âu và Trung Quốc – TNTD

Lời chia sẻ chân thành của những người bạn

Ngày nọ, một nhóm bạn thân người Úc đã trò chuyện cùng một anh bạn người Trung Quốc. Chủ đề mà họ nói đến là mức coi trọng gia đình của người Trung Quốc và người Úc khác nhau như thế nào.

Thật bất ngờ, mấy anh bạn người Úc này đã thẳng thắn nói: “Cậu đừng giận, thật ra, chúng tớ cảm thấy người Trung Quốc các cậu vốn không yêu thương gia đình, vốn không xem trọng gia đình giống như các cậu đã nói. Nói thẳng là các cậu yêu tiền nhiều hơn!”.

Những người bạn thân người Úc này lại chân thành nói tiếp:

“Không kể là ở Úc hay ở Trung Quốc, người Trung Quốc các cậu xác thực là rất chăm chỉ, các cậu ở nước ngoài cũng đều tiết kiệm được nhiều tiền hơn so với người bản địa. Nhưng tớ không cho rằng người Trung Quốc các cậu có tố chất làm ăn hơn, mà là các cậu tiết kiệm hơn chúng tớ.

Có thể tiết kiệm là nhờ hạ thấp tiêu chuẩn cuộc sống đi. Các cậu bình thường rất ít khi đi quán bar, thậm chí cuối tuần hoặc ngày nghỉ cũng đều không dám nghỉ ngơi. Quần áo đều là mua từ bên Trung Quốc đem sang đây, bởi vì mua ở bên đó rẻ hơn, tớ thậm chí còn nhìn thấy có du học sinh Trung Quốc còn mang theo rất nhiều chén đĩa sang đây”.

“Các cậu sẽ làm việc không quản ngày đêm, phó mặc con cái cho ông bà chăm sóc. Ngoài việc quan tâm thành tích học tập của con cái ra, thì bận rộn đến nỗi rất ít khi chơi cùng chúng. Ngày lễ Giáng Sinh, thậm chí còn không nghỉ ngơi. Vậy nên, những đứa trẻ người Hoa các cậu mặc dù thành tích học tập rất ưu tú, nhưng chúng luôn cảm thấy lạc lõng. Chúng cảm thấy so với các bạn, điều mà bố mẹ quan tâm hơn là khoản tiền thu nhập của gia đình, là điểm số học tập của chúng, chứ không phải là bản thân chúng có vui vẻ hạnh phúc hay không”.

“Đúng là tôi biết cậu muốn nói gì. Người Trung Quốc các cậu nói như vầy, là vì con cái nên ráng kiếm thêm chút tiền cho chúng sau này. Nhưng mỗi một đời đều nói bản thân kiếm tiền là vì đời sau, thế thì rốt cuộc đời nào sẽ thật sự dùng khoản tiền này đây?”.

“Cuộc đời là ngắn ngủi như thế, các cậu mượn cớ là vì tương lai của gia đình, mà đã hy sinh gia đình của hiện tại. Tôi thật không hiểu tổn thất này nên phải bù đắp như thế nào nữa! Sao các cậu còn có thể dùng quan niệm này mà lấy làm làm tự hào đây?”.

“Các cậu vì công việc, có thể chấp nhận vợ chồng phải sống ly thân trong khoảng thời gian rất dài. Nhưng trong con mắt chúng tớ, vợ chồng không ở bên nhau từ 3 tháng trở lên, trên cơ bản thì đã nên cân nhắc đến chuyện ly hôn rồi.

Vậy nên chúng tớ nếu được cử sang nước ngoài làm việc, thì nhất định phải là cả gia đình cùng đi, vợ của tôi, con cái của tôi đều phải cùng chuyển sang đây. Nếu như họ không đồng ý sang, tớ sẽ không thể tiếp nhận công việc này, bởi so với công việc thì dĩ nhiên gia đình quan trọng hơn rồi.

Tớ thậm chí còn nghe nói ở Trung Quốc có vợ chồng mấy chục năm đều chia nhau sống ở hai nơi, đến lúc nghỉ hưu mới có thể sống chung với nhau. Đây là sự thật quá đau lòng. Lẽ nào các cậu không thể vì gia đình mà từ bỏ công việc sao? Có thể

tìm một công việc khác cũng được mà!”.

“Trong công ty Trung Quốc của tôi có một nhân viên rất xuất sắc, nhưng vợ con lại sống ở thành phố khác, mỗi một tháng thậm chí hai tháng mới có thể gặp nhau một lần. Tại sao một trong hai người lại không thể từ bỏ công việc chứ? Tôi biết có rất nhiều người làm việc ở thành phố, họ thậm chí chỉ một năm mới về thăm nhà một lần, đều nói là kiếm tiền vì gia đình, nhưng tiền như vậy, có nhiều hơn nữa, lại có ý nghĩa gì đâu?”.

Biết bao nhiêu phụ huynh, từ sớm đã hy sinh tuổi thơ của con cái, cuối tuần bôn ba trên đường đến các lớp phụ đạo, học thêm các loại. Đợi đến khi hết tiểu học, thì bản thân xem như đã được giải thoát rồi! Nhưng tiểu học xong rồi, phát hiện trung học cũng có lớp học thêm, hơn nữa còn nhiều hơn, tụi trẻ con chính là không có thời gian để vui chơi nữa!

Đợi khi con cái lên đại học thì coi như đã xong nhiệm vụ rồi … Nhưng con cái học xong đại học rồi, đến lúc tìm kiếm công việc vẫn phải bận tâm như vậy!

Đợi đến khi con cái có công việc ổn định rồi, thì tưởng như không còn gánh nặng gì nữa … Tuy nhiên, công việc tìm được rồi, lại bắt đầu bận tâm chuyện hôn sự, nhà cửa cho con cái! Sau khi con cái kết hôn rồi, thì tôi không cần phải bận tâm gì nữa! Nhưng kết hôn, có nhà có cửa rồi, thì chúng lại sinh cháu để bế rồi!

Bao nhiêu nỗi lo toan, dù có muốn quản cũng không quản được hết, cứ lặp đi lặp lại như vậy không dứt. Tầm mắt của chúng ta vẫn luôn nhìn về phía trước; vì tương lai, hôm nay tích lũy sức khỏe, tích lũy văn bằng, tích lũy tiền bạc. Kết quả bản thân lại than trời trách đất, tầm mắt của chúng ta không có lúc nào sống ở hiện tại. Nhiều người đến cuối đời đã nhận ra rằng, cả một đời không có lấy một ngày sống vì bản thân mình.

Kỳ thực, rất nhiều người chính là đang sống như vậy!

Vậy nên, có nhận xét rằng: Người biết hưởng thụ nhất là người Mỹ; người có tín ngưỡng nhất là người châu Âu; từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi, đều chứa đầy cạnh tranh và áp lực là người Trung Quốc.

Một đời của đại đa số người Mỹ

0 – 10 tuổi: Tham gia các loại hoạt động tập thể như khảo sát, khám phá các vùng đất;

10 – 20 tuổi: Theo đuổi ước mơ;

20 – 30 tuổi: Tìm kiếm cho mình một công việc ổn định;

30 – 40 tuổi: Cuối cùng tìm ra được mục tiêu theo đuổi của đời mình, hưởng thụ cuộc sống, có nhà cửa, có xe hơi, có con cái;

40 – 50 tuổi: Thỉnh thoảng trải qua kỳ nghỉ dài sau áp lực công việc;

50 – 60 tuổi: Tận hưởng cuộc sống, du lịch;

60 – 70 tuổi: Bắt dầu viết hồi ký, du lịch;

70 – 80 tuổi: An hưởng tuổi già;

Sau khi mất: Thông thường được đưa vào nghĩa trang công cộng.

Một đời của đại đa số người châu Âu

0 – 10 tuổi: Tham gia đội nhạc trong trường, học tập âm nhạc cổ điển;

10 – 20 tuổi: Tổ chức nhóm nhạc của mình, tiến hành thưởng thức các loại âm nhạc;

20 – 30 tuổi: Chịu nhận ảnh hưởng của văn hóa nghệ thuật Gothic;

(Nghệ thuật Gothic là một phong trào nghệ thuật phát triển theo nghệ thuật Rôman ở Pháp vào thế kỷ 12, sau đó đã nhanh chóng lan rộng ra khắp Tây Âu, gần như toàn bộ phía bắc dãy núi Anpơ)

30 – 40 tuổi: Đội nhạc bắt đầu chính thức đi vào tuyến đường “màu kim loại đen”;

40 – 50 tuổi: Nhớ lại sự hồn nhiên của tuổi thơ, bắt đầu trở về cuộc sống “tràn đầy màu sắc”;

50 – 60 tuổi: An định lại, tìm kiếm tình cảm ấm áp, sống cuộc sống bình yên;

60 – 70 tuổi: Đến giáo đường tổng kết một đời của mình;

70 – 80 tuổi: An hưởng tuổi già cùng con cái;

Sau khi chết: Yên tâm nằm ở trên một miếng đất thuộc về mình.

Một đời của đại đa số người Trung Quốc

0 – 10 tuổi: Bị ép phải học tập các loại kỹ năng, không ngừng kiểm tra cấp bậc, đa số đều là bởi sĩ diện và mong đợi của bố mẹ;

10 – 20 tuổi: Gặm nhấm cả một núi sách, ứng phó các loại kỳ thi dồn dập kéo đến như sóng biển.

20 – 30 tuổi: Nộp sơ yếu lý lịch khắp nơi, lo lắng bản thân không tìm được công việc;

30 – 40 tuổi: Trở thành nô lệ của nhà cửa, xe cộ;

40 – 50 tuổi: Bận tâm lo lắng cho tương lai của con cái, nhịn ăn nhịn mặc, cố gắng dự trữ tiền bạc;

50 – 60 tuổi: Cuối cùng đã có được cuộc sống của mình, lại phát hiện đã sắp phải nghỉ hưu, lại bắt đầu lo lắng sau khi nghỉ hưu phải làm gì;

60 – 70 tuổi: Bỏ ra phần lớn sức lực để dưỡng sinh, lại phát hiện còn phải trông nom cháu;

70 – 80 tuổi: Cuối cùng an định lại để hưởng ngày tháng cuối đời;

Trước lúc chết: Phát hiện thì ra một một miếng đất ở khu nghĩa trang lại có giá ‘cắt cổ’

Người ta vẫn thường nói rằng, đời người trôi qua nhanh như bóng câu qua cửa sổ. Vậy trong những năm tháng của đời mình, bạn đã có lúc nào để tâm mình lắng lại và cảm thấy bình yên hạnh phúc bên gia đình mình; hay phải luôn bôn ba bận rộn chấp nhận làm nô lệ cho vô vàn những thứ khác!

Giữa tiền và gia đình, điều gì thực sự quan trọng hơn, trên những ngã rẽ ấy bạn đã chọn lựa đúng đắn chưa?

Cuối cùng, hành trình của một đời người là trôi qua như vậy, bạn muốn sống như một người Mỹ, Âu châu, hay là một người Trung Quốc như đã kể ở trên? Đều là do bạn quyết định vậy!

Giáo sư Anh quốc: Tiểu đường type 2 có thể chữa khỏi nhờ thay đổi chế độ ăn – TNTD


“Một chế độ ăn uống với chỉ 600 calo tiêu thụ một ngày trong vòng 8 tuần lễ có thể tạo nên điều kỳ diệu này”- Giáo sư Roy Taylor người Anh, tác giả chính của một công trình nghiên cứu mới đây cho biết. 

Bệnh tiểu đường vốn được coi là mãn tính, người bệnh chỉ có cách duy nhất là chung sống với nó suốt đời. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới của Đại học Newcastle (Anh) cho biết bạn vẫn có cơ hội đảo ngược tiến trình của bệnh, chỉ nhờ ăn kiêng ngắn hạn.

Nghiên cứu này được các nhà khoa học tán dương là “phát hiện vĩ đại” khi được trình bày tại Hiệp hội Nghiên cứu Bệnh Tiểu đường Châu Âu ở Lisbon vừa qua.

Tiểu đường type 2 bắt nguồn từ lượng calo dư thừa dẫn tới gan nhiễm mỡ, khiến gan sản xuất quá nhiều glucose. Mỡ thừa sau đó được truyền vào tuyến tụy, làm cho các tế bào sản xuất insulin không thành công và bệnh tiểu đường khởi phát.

Nghiên cứu phát hiện ra việc mất ít hơn 1 gram chất béo từ tuyến tụy có thể khiến quá trình sản xuất insulin được khởi động trở lại, dần hoạt động bình thường và từ đó đảo ngược tiến trình gây ra tiểu đường type 2.

Theo Tổ chức Lương Nông Thế giới (FAO), một người lớn bình thường cần ít nhất 1.800 calo/ngày. Vậy nên, chế độ ăn 600 calo sẽ làm bạn mất đi nhanh chóng đến 15kg và khỏi bệnh.

Chỉ với một tuần lễ đầu tiên, những thay đổi liên quan đến insulin đã được ghi nhận ở các bệnh nhân tham gia thử nghiệm. Giáo sư Taylor cho biết liệu pháp này vẫn có thể hiệu quả ở người đã mắc bệnh 10 năm.

Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng cảnh báo việc ăn kiêng này phải được kiểm soát bởi chuyên gia, theo một kế hoạch cụ thể và khoa học. Tự ý cắt giảm khẩu phần quá đột ngột, giảm cân đột ngột, tự bỏ đói bản thân… có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe của bạn.

Tiểu đường là căn bệnh ước tính ảnh hưởng đến khoảng 380.000 triệu người trên toàn thế giới, trong đó type 2 của bệnh thường khởi phát do lối sống của bệnh nhân. Thuốc men kết hợp với chế độ ăn uống, vận động phù hợp là các phương án để bệnh nhân “sống chung với bệnh” hiện nay.
-------------
Lương Y Cao Sơn (Theo Daily Mail) / ĐKN

Nhìn tướng biết tâm, nhìn tâm biết mệnh – TNTD


Nhân tướng học được thực hành ở phương Đông từ rất xa xưa vào thời cổ đại. Dựa vào quan sát diện mạo của một người mà đoán định tương lai, còn có thể tiết lộ nhiều điều về tính cách của người đó.

Xem tướng được dùng như một nghệ thuật lẫn khoa học trong khám phá sinh mệnh. Người xưa sử dụng thuật xem tướng từ việc chọn vợ gả chồng đến tìm người cho các chức vụ trong triều đình. Xem tướng trở thành một phần của xã hội cổ đại phương Đông, được ghi chép trong các thư tịch cổ như “Trúc thư kỷ niên” và ngày càng phổ biến hơn ở phương Tây.

Có nhiều cách tiếp cận để phân chia và luận giải khuôn mặt: Khái quát đến từng nét; hoặc dùng lý âm dương ngũ hành…





Thường khuôn mặt được chia làm ba phần (gọi là tam đình).


Tam Đình

Thượng đình: (Trán) từ sát mép của chân tóc đến chỗ tiếp giáp Ấn đường (khoảng giữa hai lông mày), còn gọi là Thiên, phản ánh tuổi thơ, thiếu thời, những yếu tố thiên bẩm của đối tượng. Đắc cách là cao rộng sáng sủa, thì não bộ phát triển đầy đủ, biểu hiện sự thông minh sáng suốt mà trí tuệ là tiền đề của sự thành công. Biểu hiện sơ vận của con người, từ 1-25 tuổi, nếu cao rộng: được nuôi nấng trong một gia đình đầy đủ sung sướng.

Nếu Thượng đình ngắn thì là con người có đầu óc thực tế, nếu Thượng đình tốt mà Hạ đình khuyết hãm cũng là bất đắc chí.

Trung đình: Khoảng từ lông mày xuống tới huyệt Nhân trung (giữa môi trên và mũi), còn gọi là Nhân. Trung đình quan trọng nhất là cái mũi (tốt là mũi dài, rộng, tròn, khoan hòa). Đắc cách là mũi cao và hai lưỡng quyền (gò má) rộng, mũi phải dài thì mới cân xứng. Mũi dài chủ thọ. Biểu hiện sức khỏe, khí lực. Nếu Thượng đình phát triển đầy đủ mà Trung đình khuyết hãm thì chẳng làm nên gì, trí tuệ chỉ dừng ở chỗ lý thuyết, làm việc gì cũng nản, rất khó thành công lớn.

Hạ đình: Từ Nhân trung đến địa các (cằm), còn gọi là Địa. Cần phải phong mãn, nảy nở, đầy đặn, rộng. Người cằm đầy (địa các nảy nở sáng sủa, không có vết ám hãm (vết đen, nốt ruồi) là đắc cách. Cằm phải phù hợp với mặt (nếu mặt to nhưng cằm nhỏ hoặc thót thì cũng không tốt). Nguyên tắc của tướng số là tương xứng, cân đối.

Là lộc, là hoạt lực (tất cả những khí chất của cuộc sống, kinh nghiệm đường đời, sự va chạm, bươn chải trong cuộc sống, mọi hoạt động dành cho sự mưu sinh và tồn tại cuộc sống). Địa các (cằm) nảy nở sáng sủa là vãn niên (về già) sung sướng. Địa các khuyết hãm: Vãn niên vất vả. Địa các mỏng (cằm sắc lẹm): Là người bảo thủ, cực đoan.

Dùng thuyết tam tài (Thiên – Địa – Nhân) mà quan sát tam đình có thể có được cái nhìn khái quát về đường đời của đối tượng: Tam đình bình ổn, phú quí vinh hiển. Tam đình bất ổn, thế cô bần tiện.

Lại có thể xem từng bộ phận

Ví dụ như khoảng cách trung bình giữa hai mắt là bằng độ dài của một con mắt. Diện tướng gợi ý rằng khoảng cách giữa hai mắt có thể nói lên cái chí của một người. Người mà khoảng cách này rộng thì thường là dễ dãi, vui đâu chầu đấy, còn những người mà khoảng cách này hẹp thì thường là kẻ có chí. Ví dụ khác là môi miệng. Diện tướng gợi ý độ dầy mỏng của môi nói lên cái tính của người. Người môi mỏng thường đa ngôn, lắm lời. Môi dầy thường có tài ăn nói.

Hai môi cân xứng, lăng giác (là đường nét môi) rõ ràng, hình dáng thanh nhã, môi hồng, khóe miệng hướng lên, răng đều và trắng (răng là hình của miệng). Lời nói là thần của miệng, miệng đẹp nhưng hay nói xàm bậy là bị phá (vì tâm không tĩnh, không thể đạt tới cao sang). Nếu miệng môi đắc cách hậu vận sung sướng, con cái thành đạt, bạn bè tốt.






Nhìn tướng mạo biết được vận mệnh

Câu chuyên Bùi Độ

Bấy giờ là thời triều đại nhà Đường, Bùi Độ thuở nhỏ sống cảnh nghèo khổ cơ cực. Một hôm, trên đường gặp một vị tướng số. Vị này nhìn tướng mạo Bùi Độ, thấy ánh mắt láo liên, đường gân chạy vào chỗ miệng; ấy là tướng ăn xin đầu phố, đói khổ mà chết; bèn khuyên Bùi Độ nên nỗ lực tu dưỡng, hành thiện tích đức .

Mấy ngày sau, Bùi Độ nhặt được trên núi Hương Sơn một chiếc đai ngọc của nữ nhân và tìm trả cho người ta, nhờ thế mà cứu được tính mệnh cha mẹ cô gái ấy. Hôm sau ông gặp lại vị tướng số hôm nọ.

Vị này trông thấy Bùi Độ có ánh mắt trong sáng, thần thái đã khác hẳn, liền nói sau này Bùi Độ sẽ làm quan đại thần trong triều. Vị tướng số bèn khuyến khích Bùi Độ hành Thiện: “Tấm thân bảy thước chẳng bằng khuôn mặt bảy tấc; khuôn mặt bảy tấc chẳng bằng cái mũi ba tấc; cái mũi ba tấc chẳng bằng một khối tâm”.

Quả nhiên Bùi Độ sau làm trọng thần của bốn đời vua Đường Hiến Tông, Đường Mục Tông, Đường Kính Tông, và Đường Văn Tông, là danh tướng toàn tài, đương thời đã thành danh “huân cao trung nguyên, vang danh biên ngoại”. Trong sử sách nhìn nhận ông là “đức độ thuỷ chung suốt bốn đời vua”, uy danh đức độ của ông sánh với Quách Phần Dương. Bùi Độ có năm người con, đều có danh tiếng rạng rỡ, bản lĩnh hơn người.

Chuyện Bùi Chương

Bùi Chương là người Giang Đông tỉnh Sơn Tây. Cha mẹ của Bùi Chương có quan hệ rất thân với thần tăng Đàm Chiếu Pháp Sư. Pháp Sư giỏi về thuật tướng số, ông coi tướng Bùi Chương, thấy thiên đình bạo mãn, địa các phương viên (đỉnh trán và cằm đầy đặn phúc hậu), là tướng tương lai làm nên sự nghiệp danh giá, nhất định thành tựu.

Khi hai mươi tuổi, Bùi Chương cưới Lý Thị làm vợ. Một năm sau đó anh đến Thái Nguyên làm quan, vợ con phải để lại ở nhà. Mấy năm sau Bùi Chương trở về gặp Đàm Chiếu Pháp Sư, thì Pháp Sư rất ngạc nhiên thấy tướng mạo của anh đổi khác hẳn: Thiên đình lép kẹp, cằm nhọn, lòng bàn tay có hắc khí xoay chuyển.

Pháp Sư bèn bảo rằng anh ta e rằng sẽ gặp hoạ, phải cẩn thận; rồi gạn hỏi xem anh có làm gì thất đức không. Bùi Chương suy xét rồi kể rằng mấy năm ở Thái Nguyên chỉ phạm mỗi việc thông dâm với dân nữ là trái với luân lý mà thôi, chứ không làm gì bất lương cả.

Đàm Chiếu Pháp Sư thở dài thườn thượt nói: “Vốn dĩ cậu có tương lai tốt đẹp, sao chẳng biết trân quý? Tư thông với vợ người ta, cậu đã huỷ hết phúc đức của mình rồi. Thật quá là đáng tiếc!”

Dần dần về sau Bùi Chương thật sự gặp đại hoạ. Một lần, khi đang tắm thì bị hành thích, một đao trúng bụng, gan ruột phòi ra bỏ mạng.


Tướng mạo của một người sẽ thay đổi theo tâm niệm thiện ác của người đó

“Tướng do tâm sinh” là quan niệm trong văn hóa Thần truyền, cả trong Phật giáo lẫn Đạo giáo. “Tướng” là bề mặt, là biểu hiện bên ngoài; “tâm” là hoạt động bên trong; “tướng” là hư cấu bất thực, ở trạng thái bị động, là phản ánh ra ngoài của “tâm”; “tâm” thế nào thì “tướng” thế nấy; “tướng” là tuỳ theo “tâm” biến hoá mà biến hoá theo, cũng gọi là “cảnh tuỳ tâm chuyển”, “tướng tuỳ tâm sinh”. Cũng có thể coi “tâm” là nhân của “tướng”, “tướng” là quả của “tâm”.

Về mặt khoa học, Trung y cổ đại, sinh lý học hiện đại và tâm lý học đã phân tích đạo lý “tướng do tâm sinh” rất đơn giản. Tướng mạo của một người là sự kết hợp giữa “hình” và “thần”.

Hình là dung mạo có từ khi sinh ra. Thần thái quyết định bởi quá trình tu dưỡng.

Từng ý từng niệm thể hiện trong sinh hoạt thường ngày của mỗi người, qua năm tháng đều ngưng tụ trên gương mặt của họ, gọi là “những gì bên trong sẽ hiện ra bên ngoài” (hữu chư nội tất hình chư ngoại).

Tâm niệm nảy sinh sẽ tác động đến thân thể, nếu tâm bình hòa yên tĩnh, lòng thanh thản bao dung, quang minh chính đại, thì khí huyết hài hòa, ngũ tạng yên định, thân thể sẽ khỏe mạnh, nét mặt nhờ đó bình ổn, thần sắc sáng sủa, khiến người khác nhìn vào cũng cảm thấy dễ chịu, thoải mái, vì vậy mà việc giao tiếp thân thiện, vui vẻ.

Tuân Tử cho rằng: “Tướng hình không bằng tướng tâm, luận tâm không bằng luận đức”. Trong cuốn sách tướng thuật ảnh hưởng nhất thời cổ đại “Thái thanh thần giám” bàn về đức như sau: “Lấy đức làm đầu, biểu hiện trong hành động” (vi đức chi tiên, vi hành chi biểu), “Đức có trước hình, hình có sau đức” (đức tại hình tiên, hình cư đức hậu), “Bỏ ác theo thiện, trừ nạn tránh hung” (khứ ứa tùng Thiện, tiêu tai tị hung).

Từ tướng biết tâm, từ tâm biết mệnh

Khuôn mặt đẹp cũng là một loại phúc báo. Dù là phúc báo gì đều có căn nguyên của nó, giống như tài phú đến từ bố thí, tôn quý đến từ khiêm cung, khuôn mặt đẹp đến từ dịu dàng lương thiện. Đến trung niên, tướng mạo đã đi vào ổn định, cũng là thể hiện của tính cách một người.


Xinh đẹp cũng là do phúc báo, Phúc báo nào cũng đều có căn nguyên của nó. (Ảnh ĐKN)

Tướng mạo không phải sinh ra là cố định, mà nó là phản chiếu của quá trình tu tâm và hành động lâu dài; cũng vì vậy, tướng mạo sẽ biểu lộ ra vận mệnh tương lai của một người. Nửa đời trước là ảnh hưởng từ kiếp trước, nửa đời sau, chính là tự mình. Vậy mới nói, sau khi đến trung niên, cần phải chịu trách nhiệm với hành vi của chính mình.

Người có thiện tâm, thường từ trong ra ngoài tản mát ra một loại hào quang, thần thái toát lên vẻ an hòa, tự tại khiến người gặp gỡ thấy thoải mái ngay cả khi chưa nói chuyện. Mà người ích kỷ, giảo hoạt, so đo, tất khó nhìn, thậm chí xấu xí; cho dù may mắn có khuôn mặt đẹp đẽ, người ta thường nói khuôn mặt không có duyên, càng tiếp xúc càng thấy khuôn mặt dẫu đẹp cũng không có cảm tình.

Làm việc thiện hay ác đều hiển hiện trên tướng mạo

Xưa có hai anh xem sinh đôi là Cao Hiếu Tiêu và Cao Hiếu Tích, cử chỉ lời nói và tài trí thông minh đều giống nhau như chỉ là một người. Đạo sĩ Trần Hi Di sau khi xem tướng mạo hai người, nói: “Hai người các ngươi có lông mày xanh và đôi mắt đẹp đều là người có trong danh sách đỗ đạt. Huống hồ ánh mắt các ngươi bây giờ màu sắc rực rỡ, tất sẽ đỗ đạt cao”.

Đến kì thi Hương, hai anh em liền cùng nhau vào Kinh Thành, sống nhờ tại nhà một người thân thích. Hàng xóm có một quả phụ trẻ tuổi xinh đẹp. Cao Hiếu Tiêu một lòng dốc lòng cầu học tâm không động. Cao Hiếu Tích không cầm lòng được, nên tư thông cùng thiếu phụ kia. Sau đó bị người khác phát giác, quả phụ xấu hổ quá nhảy sông tự vẫn.

Kỳ thi mùa thu kết thúc, Trần Hi Di nhìn hai người họ, kinh ngạc nói: “Tướng mạo hai anh em các người thay đổi rất lớn. Lông mày Hiếu Tiêu màu tím, ánh mắt sáng ngời, nhất định là đỗ cao. Mà lông mày Hiếu Tích có thay đổi, hai con ngươi phù, sống mũi ngắn mà đen, thần sắc chán nản tiều tụy, khí lạnh mà tán, đây nhất định là do làm tổn hại đạo đức mà khiến tướng mạo thay đổi. Cuộc thi này chẳng những không đậu, ngược lại có dấu hiệu chết sớm”.

Sau khi yết bảng, Cao Hiếu Tích thi rớt, hậm hực mà chết. Cao Hiếu Tiêu trở thành quan lớn, thanh danh hiển hách, con cháu đông đúc.

Trần Hi Di bởi vậy cảm thán: “Nhìn ra tướng mạo một người là dễ dàng! Nhưng vận mệnh một người lại không dễ mà đoán chuẩn xác được, bởi vì mệnh là trời định, tướng do hành vi của con người tạo nên. Nếu có thể thuận theo Thiên ý, hòa hợp sự việc với người, ắt đời đời hưng vượng. Đây gọi là phúc hoạ vô môn, duy nhân tự triệu (phúc họa không có cửa, đều do người triệu mời)”.


Tướng do tâm sinh, cảnh tuỳ tâm chuyển

Một buổi sáng tôi đi qua công viên gần nhà và nhìn thấy những người ngồi thiền định. Sớm đầu hạ trong veo, mặt hồ ngát hương sen, mùi hoa chớm nở và còn đẫm hơi sương khiến không gian dịu ngọt, thuần khiết. Tôi nhìn thấy một cô gái thiền định, dáng vẻ cô có gì đó tựa như loài hoa của mùa hè.

Tôi không biết bằng cách nào và vì sao cô ấy có vẻ đẹp khiến tôi xúc động như thế. Đó không phải vẻ đẹp của dung nhan kiều diễm. Cô ngồi thiền định mắt nhắm khẽ. Nhưng gương mặt và cả thế ngồi toả ra ánh sáng của nội tâm, khiến cô như ngồi trong một đài sen, và chính cô lại toả ra ánh sáng của tinh thần, thứ ánh sáng mà tôi biết là không thể dùng son phấn trang điểm được.

Về sau tôi biết được rằng, lúc đó cô đang tập một bài thiền của Phật gia, và thứ ánh sáng lạ lùng khiến tôi tĩnh lặng không thốt nên lời khi gặp cô buổi ấy là bởi cô đã không ngừng tu dưỡng bản thân theo nguyên lý Chân – Thiện – Nhẫn. Chân thành, thiện lương và dung nhẫn trong mọi hoàn cảnh, với bất kỳ ai cô gặp.

‘Người ta là hoa đất’ – người là tinh hoa của trời đất, tự trong sinh mệnh đã đồng hoá với đặc tính Chân Thiện Nhẫn của vũ trụ, khi sinh ra vốn đã bẩm thụ cái linh khí thuần khiết của đất trời. Người xưa dạy rằng, hành thiện có thể thay đổi số mệnh, cũng có thế thay đổi tướng mạo của mỗi người. Bất luận phúc báo nào đều là có căn nguyên tất nhiên của nó, giống như tài phú sẽ đến từ việc năng làm từ thiện, sự tôn quý đến từ sự khiêm nhường, dung mạo xinh đẹp sẽ đến từ tính ôn hòa thuần thiện.
---------
Tuấn Dũng – Lam Thư / ĐKN

TẠI SAO NGƯỜI LƯƠNG THIỆN HAY GẶP NỖI BUỒN VÀ TRẮC TRỞ?

Tôi tìm đến một bậc thầy để hỏi lý dọ: “Tại sao những người lương thiện như con rất hay gặp khổ, trong khi những người ác sống vô lo quá vậy?”

Người thầy hiền hòa nhìn người một lúc rồi nói:

“Nếu một người trong lòng cảm thấy khổ, chắc trong tâm phải đang ôm giữ ác ý nào đó. Nếu một người nội tâm không có điều ác, người này sẽ không có cảm giác thống khổ. Vì thế, căn cứ theo đạo lý này, con thường cảm thấy khổ, nghĩa là nội tâm của con có tồn tại điều ác, con không phải là một người lương thiện thật sự. Mà những người con cho rằng là người ác, lại chưa hẳn là người thật sự ác”.

Một người có thể vui vẻ mà sống, ít nhất nói rõ người này không phải là người ác thật sự.
Loading...

Có cảm giác như bị xúc phạm và không phục, tôi nói:

“Con sao có thể là người ác được? Gần đây, tâm con rất lương thiện mà!”

Thầy trả lời:

“Nội tâm không ác thì không cảm thấy khổ, con đã cảm thấy khổ, nghĩa là trong tâm con còn tồn tại điều ác. Con hãy nói về nỗi khổ của con, ta sẽ nói cho con biết, điều ác nào đang tồn tại trong con”.

Tôi nói:

“Nỗi khổ của con thì rất nhiều! Có khi cảm thấy tiền lương thu nhập rất thấp, nhà ở cũng không đủ rộng, thường xuyên có “cảm giác thua thiệt” bởi vậy trong tâm con thường cảm thấy không thoải mái, cũng hy vọng mau chóng có thể cải biến tình trạng này; trong xã hội, không ít người căn bản không có văn hóa gì, lại có thể lưng quấn bạc triệu, con không phục; một trí thức văn hóa như con, mỗi tháng lại chỉ có một chút thu nhập, thật sự là không công bằng; người thân nhiều lúc không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái…”


Cứ như vậy, lần lượt tôi kể hết với thầy những nỗi thống khổ của mình. Thầy gật đầu, mỉm cười, một nụ cười rất đôn hậu, người từ tốn nói với tôi:

“Thu nhập hiện tại của con đã đủ nuôi sống con và gia đình. Con còn có cả phòng ốc để ở, căn bản là đã không phải lưu lạc ngoài xã hội, chỉ là diện tích hơi nhỏ một chút, con hoàn toàn có thể không phải chịu những khổ tâm ấy.

Nhưng bởi vì nội tâm con có lòng tham đối với tiền tài và của cải, cho nên mới cảm thấy khổ. Loại lòng tham này là ác tâm, nếu con có thể vứt bỏ ác tâm ấy, con sẽ không vì những điều đó mà cảm thấy khổ nữa.

Trong xã hội có nhiều người thiếu văn hóa nhưng lại phát tài, rồi con lại cảm thấy không phục, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị cũng là một loại ác tâm. Con tự cho mình là có văn hóa, nên cần phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngạo mạn. Tâm ngạo mạn cũng là ác tâm.

Cho rằng có văn hóa thì phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngu si; bởi vì văn hóa không phải là căn nguyên của sự giàu có, kiếp trước làm việc thiện mới là nguyên nhân cho sự giàu có của kiếp này. Tâm ngu si cũng là ác tâm!

Người thân không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái, đây là không rộng lượng. Dẫu là người thân của con, nhưng họ vẫn có tư tưởng và quan điểm của riêng mình, tại sao lại cưỡng cầu tư tưởng và quan điểm của họ bắt phải giống như con? Không rộng lượng sẽ dẫn đến hẹp hòi. Tâm hẹp hòi cũng là ác tâm”.

Sư phụ tiếp tục mỉm cười:

“Lòng tham, tâm đố kỵ, ngạo mạn, ngu si, hẹp hòi, đều là những ác tâm. Bởi vì nội tâm của con chứa đựng những ác tâm ấy, nên những thống khổ mới tồn tại trong con. Nếu con có thể loại trừ những ác tâm đó, những thống khổ kia sẽ tan thành mây khói”.

Con đem niềm vui và thỏa mãn của mình đặt lên tiền thu nhập và của cải, con hãy nghĩ lại xem, căn bản con sẽ không chết đói và chết cóng; những người giàu có kia, thật ra cũng chỉ là không chết đói và chết cóng. Con đã nhận ra chưa, con có hạnh phúc hay không, không dựa trên sự giàu có bên ngoài, mà dựa trên thái độ sống của con mới là quyết định. Nắm chắc từng giây phút của cuộc đời, sống với thái độ lạc quan thay thế dần cho lòng tham, tính đố kỵ và ích kỷ; nội tâm của con sẽ dần được chuyển hóa, dần thay đổi để thanh thản và bình an hơn.

“Trong xã hội, nhiều người không có văn hóa nhưng lại giàu có, con hãy nên vì họ mà vui vẻ, nên cầu chúc họ càng giàu có hơn, càng có nhiều niềm vui hơn mới đúng. Người khác đạt được, phải vui như người đó chính là con; người khác mất đi, đừng cười trên nỗi đau của họ. Người như vậy mới được coi là người lương thiện! Còn con, giờ thấy người khác giàu con lại thiếu vui, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị chính là một loại tâm rất không tốt, phải kiên quyết tiêu trừ!”

Con cho rằng, con có chỗ hơn người, tự cho là giỏi. Đây chính là tâm ngạo mạn. Có câu nói rằng: “Ngạo mạn cao sơn, bất sinh đức thủy” (nghĩa là: ngọn núi cao mà ngạo mạn, sẽ không tạo nên loại nước tốt) người khi đã sinh lòng ngạo mạn, thì đối với thiếu sót của bản thân sẽ như có mắt mà không tròng, vì vậy, không thể nhìn thấy bản thân có bao nhiêu ác tâm, sao có thể thay đổi để tốt hơn. Cho nên, người ngạo mạn sẽ tự mình đóng cửa chặn đứng sự tiến bộ của mình. Ngoài ra, người ngạo mạn sẽ thường cảm thấy mất mát, dần dần sẽ chuyển thành tự ti. Một người chỉ có thể nuôi dưỡng lòng khiêm tốn, luôn bảo trì tâm thái hòa ái từ bi, nội tâm mới có thể cảm thấy tròn đầy và an vui.
“Kiếp trước làm việc thiện mới chính là nguyên nhân cho sự giàu có ở kiếp này, (trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu). Mà người thường không hiểu được nhân quả, trồng dưa lại muốn được đậu, trồng đậu lại muốn được dưa, đây là thể hiện của sự ngu muội. Chỉ có người tu luyện chân chính, mới thật sự hiểu được nhân quả, quy luật tuần hoàn của vạn vật trong vũ trụ, nội tâm mới có thể minh tỏ thấu triệt. Để từ đó, biết làm thế nào lựa chọn tư tưởng, hành vi và lời nói của mình cho phù hợp. Người như vậy, mới có thể theo ánh sáng hướng đến ánh sáng, từ yên vui hướng đến yên vui”.

“Bầu trời có thể bao dung hết thảy, nên rộng lớn vô biên, ung dung tự tại; mặt đất có thể chịu đựng hết thảy, nên tràn đầy sự sống, vạn vật đâm chồi! Một người sống trong thế giới này, không nên tùy tiện xem thường hành vi và lời nói của người khác. Dẫu là người thân, cũng không nên mang tâm cưỡng cầu, cần phải tùy kỳ tự nhiện! Vĩnh viễn dùng tâm thiện giúp đỡ người khác, nhưng không nên cưỡng cầu điều gì”.

“Nếu tâm một người có thể rộng lớn như bầu trời mà bao dung vạn vật, người đó sao có thể khổ đây?”

Vị thầy khả kính nói xong những điều này, tiếp tục nhìn tôi với ánh mắt đầy nhân từ và bao dung độ lượng.

Ngồi im lặng hồi lâu…xưa nay tôi vẫn cho mình là một người rất lương thiện, mãi đến lúc này, phải! chỉ đến lúc này, tôi mới biết được trong tôi còn có một con người rất xấu xa, rất độc ác! Bởi vì nội tâm của tôi chứa những điều ác, nên tôi mới cảm thấy nhiều đau khổ đến thế. Nếu nội tâm của tôi không ác, sao tôi có thể khổ chứ ?

Xin cảm tạ thầy, nếu không được người khai thị dạy bảo, con vĩnh viễn sẽ không biết có một người xấu xa như vậy đang tồn tại trong con!

Bài thuốc trị gai cột sống....


Không có văn bản thay thế tự động nào.

16 tháng 9, 2017

Bí quyết dưỡng sinh 6 chữ của Đông y: Thuận, tĩnh, tu, điều, bổ, cố


Bí quyết dưỡng sinh của Đông y có 6 chữ: Thuận, tĩnh, tu, điều, bổ, cố; thật sự lĩnh hội và làm được mấy điểm này, khỏe mạnh trường thọ sẽ không còn xa với bạn nữa.

Trong những năm gần đây, theo xu hướng chung mọi người đều chú trọng sức khỏe, dưỡng sinh bảo vệ sức khỏe cũng được mọi người quan tâm, cùng với internet, học tập sách vở các loại phương pháp dưỡng sinh phòng bệnh, đương nhiên những thứ này đều là mở rộng của dưỡng sinh cơ bản nhất, mà dưỡng sinh cũng không phải đơn giản là bấm điểm huyệt vị, uống chút thuốc bổ.

Quan điểm của Phật giáo về số mệnh

Con người có số mệnh hay không? Có nên tin vào số mệnh hay không? Thái độ của các triết gia và của các tôn giáo lớn đối với vấn đề số mệnh như thế nào, và đặc biệt là đạo Phật, một trong những tôn giáo lớn của thế giới và là tôn giáo lớn nhất, có số tín đồ đông nhất ở nước ta hiện nay quan niệm vấn đề số mệnh như thế nào?

Bài viết của Giáo sư Minh Chi (Học viện Phật giáo Việt Nam, TP HCM)

Vâng, trong cuộc sống xã hội đầy bất trắc và đặc biệt trong thời gian kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ trước đây, rất nhiều chuyện xảy ra, có thật không hư cấu, khiến người ta tin là có số mệnh. “Nhanh cũng chết, chậm cũng chết, may thì sống” đó là câu thường được nói tới trong suốt thời gian máy bay Mỹ ào ạt dội bom vào miền Bắc nước ta, khi giữa cái chết và cái sống, khoảng cách chỉ là một tích tắc đồng hồ hay là một sợi gang sợi tóc.
Trong một bối cảnh xã hội và đất nước đầy bất trắc và nước sôi lửa bỏng như vậy, số người tin vào chuyện tướng số, bói toán, cầu đảo phải rất nhiều, và ngày càng nhiều. Hiện nay, nghề xem bói, xem tướng, nhà đất cũng rất phát đạt. Giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ, kỹ sư không ít người đi xem bói, xem tướng.
Hãy đặt câu hỏi: Có cơ sở đạo lý gì cho tất cả những chuyện này hay không?
Con người là sinh vật có lý trí, đối với những tai hoạ lớn giáng vào một đất nước, một vùng, một dân tộc hay cá nhân một con người… con người không thể tin đó là ngẫu nhiên, mà tin là có sự tác động của những nguyên nhân sâu xa, có thể là siêu nhiên mà trình độ hiểu biết hiện nay của con người không giải thích được.
Tôi có người bạn cũ là anh Vũ Thơ, nguyên Bí thư tỉnh uỷ tỉnh Ninh Bình. Một lần, anh tâm sự: Tôi là Đảng viên Cộng sản, là Mác-xít, nhưng có chuyện xảy ra ngay trong tỉnh mà tôi phụ trách, khiến tôi nghi rằng có một cái gì đó không phải là vật chất đứng đàng sau những chuyện đó. Chuyện như sau:
“Cái xã gần quốc lộ số một, nối liền Hà Nội với tỉnh lỵ Ninh Bình, có một cô gái xưa nay vốn lười biếng, không hay đi làm. Thế mà hôm ấy, mặc dù trời mưa lớt phớt, cô ta lại ra đồng làm cỏ sớm hơn mọi người. Một chiếc ô tô con chạy nhanh trên đường quốc lộ, không hiểu sao trượt bánh, băng ngang qua đường đúng vào chỗ cô gái đang làm cỏ, nhận cô ta xuống bùn chết tươi. Tôi đích thân đến xem nơi xảy ra tai nạn. Từ chỗ cô gái làm cỏ đến vệ đường cũng phải đo được gần chục mét, chiếc ô tô phải chạy nhanh lắm mới có thể băng qua gần 10 mét được. Tại sao lại xảy ra chuyện như vậy nhỉ, một cô gái hằng ngày vốn lười không đi làm, tại sao đúng hôm nay lại đi làm trước mọi người ngay trong khi trời đang mưa lớt phớt…
Còn bao nhiêu chuyện nữa, cũng vô lý tương tự như chuyện cô gái làm cỏ, xảy ra trong và sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, làm mọi người dù là duy vật Mát- xít cũng phải tin vào số phận hay số mệnh.
Cơ quan thuỷ sản của Hải Phòng trước đây là một ngôi nhà bốn tầng, tôi đã từng đến thăm trong thời gian có chiến dịch máy bay Mỹ dội bom miền Bắc. Một quả bom xuyên đã rơi trúng cơ quan thuỷ sản, vì là quả bom xuyên, nên nó xuống tận hầm mới nổ, khiến cho những người nào nhanh chân chạy xuống hầm trước đều chết. Trái lại những người còn chậm chân ở tầng ba, tầng hai thì lại không can gì, mặc dù ai cũng dều hú vía.
Tôi có một anh bạn tên Sự, nguyên là vụ trưởng vụ tài vụ của bộ công nghiệp nặng, khi bộ này chưa tách thành nhiều bộ; anh có một cái hầm bê tông ở gần nhà, có thể nói là an toàn 100% để tránh máy bay. Không may cho anh bạn tôi là hôm ấy anh có xuống hầm khi máy bay đến nhưng lại ngồi ở cửa không chịu vào sâu bên trong hầm như vợ và các con của anh. Máy bay Mỹ thả một quả bom tạ vào nhà máy điện Yên Phụ nhưng không trúng, bom nổ gây một chấn động dữ dội, anh Sự ngồi ở cửa hầm đầu đập vào thành bê tông, bị vỡ sọ chết ngay tức khắc. Anh đã chết ở nơi an toàn nhất, làm sao hiểu được?
Vì vậy mà ở miền Bắc, trong thời kỳ máy bay Mỹ ném bom dữ dội đã lưu hành câu nói ở cửa miệng nhiều người: “Nhanh cũng chết, chậm cũng chết, chỉ có may thì sống”.
Cái may đó phải chăng là số mệnh hay số phận? Các triết gia, các tôn giáo cổ kim nhận thức vấn đề số mệnh và số phận như thế nào?
I. CÁC THUYẾT TÚC MỆNH LUẬN, ĐỊNH MỆNH LUẬN, THIÊN MỆNH LUẬN
Nói chung, tất cả mọi thuyết dẫn tới thái độ yên phận và tiêu cực của con người đều thiếu giá trị nhân bản, dù chúng mang bất cứ nhãn hiệu nào.
Túc mệnh luận là thuyết cho rằng số phận con người là do quá khứ trước đây an bài, sắp đặt cả, mọi cố gắng hay nỗ lực đều vô ích.
Con vua rồi lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa
Những người ở Trung Quốc xưa hay nói câu: “Nhất ẩm nhất trác mạc phi tiền định”, nghĩa là ăn một miếng, uống một chén, không gì là không do quá khứ quyết định trước. Có thể nói đó là những người theo túc mệnh luận cực đoan.
Định mệnh luận cũng là túc mạng luận, nhưng cường điệu tính chất bất khả kháng của số mệnh. Ý nói, số mệnh là quyết đinh, mọi cố gắng con người đều vô ích.
Thiên mệnh luận có nhiều nghĩa, không phải nghĩa nào cũng sai. Nếu hiểu thiên mệnh là thiên đạo, tức là đạo trời, là luật tắc tự nhiên, áp dụng vào thế giới của nhân sinh thì không có gì sai. Phải chăng, đó là ý tứ của Khổng Tử trong Luận Ngữ: “Ngô… ngũ thập nhi tri thiên mệnh”- (Ta…năm mươi tuổi thì biết mệnh Trời). Nếu hiểu mệnh Trời là số mệnh mà ông Trời quy định cho mình thì đó là số mệnh luận, hay đúng hơn là thiên mệnh luận, và tất nhiên Phật giáo sẽ bác bỏ thuyết đó. Nhưng Tống Nho Chu Hy lại giải thiên mệnh như là “nguyên lý vận hành và biến hoá của tự nhiên” thì đây không phải là số mệnh luận. Nhưng vấn đề còn tuỳ thuộc ở phái Tống Nho hiểu luật tắc tự nhiên như thế nào.
Ở chương 16 cuốn “Đạo Đức Kinh”, Lão Tử cũng nói “Phục Mệnh”, nhưng trong văn cảnh của chương này, thì mệnh ở đây rõ ràng chỉ có nghĩa là đạo, chứ không phải là số mệnh.
“Phù vật vân vân, các phục kỳ căn, quy căn viết tĩnh, thị vi phục mệnh”- (muôn vật phồn thịnh, mỗi vật đều trở về cội gốc của mình, trở về cội gốc thì gọi là tĩnh, tức là trở về với mệnh).
Rõ ràng, Lão Tử dùng từ mệnh ở đây không phải với nghĩa số mệnh, mà với nghĩa đạo, tức là cội nguồn của trời đất muôn vật.
Trong Thần hệ Hy Lạp cổ đại có Thần số mệnh gọi là Fate, mà cả đến Zeus, vị Thần tối cao đứng đầu các vị Thần, cũng phải e dè, nể sợ. Như vậy, người Hy Lạp cổ đại tin rằng, tất cả các vị Thần, kể cả Zeus cũng phải phục tùng số mệnh.
Niềm tin ở số mệnh phổ biến như vậy, lan tràn như vậy, từ xưa tới nay, từ Tây sang Đông, thì phải chăng niềm tin đó có đạo lý của nó, cơ sở khoa học khách quan của nó?
Người Pháp có câu: “I’homme propose, Dieu dispose”(người kiến nghị nhưng Thượng Đế bác đi).
Đây cũng là một biểu hiệ⮠rõ nét của thuyết mà Phật giáo gọi là Thần ý luận, khẳng định mọi sự việc trong thế gian này đều do ý muốn của Thượng Đế và ý muốn đó là siêu việt, vượt trên tầm hiểu biết của con người, cho nên con người chỉ nên phục tùng, không những không được chống đối mà còn phải cảm tạ và tri ân Thượng Đế.
Thiên mệnh luận cũng là số mệnh, nhưng số mệnh được nhân cách hoá thành Thượng Đế, hay là số mệnh do một nhân cách siêu nhiên an bài, xếp đặt. Cái nguy của thuyết này là một mặt khiến cho con người ta an phận thủ thường, mất hết ý chí phấn đấu, mặt khác lại khiến cho con ngưòi trốn tránh trách nhiệm của mình, thậm chí mình giết người, đoạt của, nhưng lại tự an ủi: đó là do Thượng Đế muốn như vậy, đó là ý chí huyền nhiệm của Thượng Đế.
Phật giáo tôn trọng tất cả tôn giáo bạn, kể cả những tôn giáo công nhận có Thượng Đế tạo thế. Đó là đường lối thuỷ chung như nhất của Phật giáo từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như ở các nước Phật giáo khác. Tính bao dung về mặt tư tưởng vốn là một đặc tính của Phật giáo mà các nhà tôn giáo học trên thế giới đều công nhận, nhưng điều này không có nghĩa là Phật giáo chấp nhận, không phản đối một số quan điểm của những tôn giáo đó về vũ trụ và nhân sinh.
II. MỘT SỐ TÔN GIÁO VỀ VẤN ĐỀ SỐ PHẬN HAY SỐ MỆNH
A. TÔN GIÁO HY LẠP CỔ ĐẠI
Trong tư tưởng của Hy Lạp cổ đại, vấn đe༯ số phận (Fate) chiếm vị trí quan trọng, và được biểu trưng bằng ba nữ Thần ngồi dưới một gốc cây ở trung tâm trái đất và quyết định số phận của mỗi người. Vị nữ thần thứ nhất có tên là Clotho, làm nhiệm vụ kéo sợi đan thành số phận cho mỗi ngưòi. Vị nữ Thần thứ hai có tên là Lachesie làm nhiệm vụ phân phối số phận cho mỗi người. Vị nữ Thần thứ ba có tên là Atropos, làm nhiệm vụ cắt đứt số phận của mỗi người, tức là quyết định người nào phải chết và chết lúc nào.
Tư tưởng số phận đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật kịch Hy Lạp cổ đại. Trong các bi kịch của Sophocle, thầy bói (Oracle) làm chức năng thông tin cho con người biết số phận của mình, như là một cái gì đã được quyết định trước rồi. Đặc biệt là hoàn cảnh chết của mỗi người là do số phận đã được quyết định như nội dung vở kịch Oedipe cho thấy.
Trên đây ta đã nói về tư tưởng số phận hay số mệnh trong tư tưởng Hy Lạp cổ đại, như trong các tác phẩm của Homer cho thấy, ngang qua ba nữ Thần số mệnh nói trên đây, tuy Homer thường dùng từ số phận hay số mệnh theo số ít, nhằm biểu trưng cho một sức mạnh siêu nhiên, siêu việt lên trên ý chí con người.
B.ẤN ĐỘ GIÁO VÀ VẤN ĐỀ SỐ MỆNH
Ấn Độ giáo, như là tôn giáo thường nói tới một số thần linh như Vishnu, Siva, Kali có khả năng quyết định số phận của mỗi cá nhân tín đồ, thậm chí đôi khi ngược lại với hướng của nghiệp do cá nhân đó tạo ra.
Nhưng Ấn Độ giáo còn nói tới hai yếu tố khác, cũng quyết định đời sống của con người là nghiệp (karma) và thời. Yếu tố nghiệp cũng tương tự như khái niệm nghiệp của đạo Phật, nhưng không triệt để và nhất qúan bằng đạo Phật. Vấn đề này sẽ được bàn kỹ trong phần “Đạo Phật thay thuyết số mệnh bằng thuyết nghiệp”.
Còn yếu tố ‘thời’ của Ấn Độ giáo cũng tương đương như yếu tố thời trong Dịch hoc của Trung Quốc vậy.
Nói chung, trong văn chương của Ấn Độ giáo, cả ba yếu tố Thần linh, nghiệp (karma) và thời đều được nhắc tới. Thí dụ, trong cuốn Thánh ca nổi tiếng “Bhagavad Gita” khi hoàng tử Arjuna do dự không muốn xung trận vì kẻ thù không ai khác mà chính đều là bà con, họ hàng thân thuộc cả, thì Thần Krishna đóng vai trò người lái binh xa cho Arjuna, đã hiện nguyên hình và đã diễn giải cho Arjuna là phải xung trận, vì số phận của kẻ thù là bị tiêu diệt. Nội dung của tập Thánh ca “Bhagavad Gita” cho thấy, chi phối sự diễn biến của tình hình là ý chí của thần Vishnu cộng với sức mạnh của karma.
Nói chung, phần lớn những người theo Ấn Độ giáo đều tin những sự kiện chủ yếu trong cuộc đời, như thân phận tái sanh, sức khoẻ nói chung, người vợ tương lai hay người chồng tương lai, số con và giới tính của con, thời điểm chết đều được xác định trước bởi nghiệp (karma), hình thành từ trong đời sống quá khứ.
Một số tín đồ Ấn Độ giáo tin rằng sự cố hay là tác động của một thần linh có thể đem lại cái chết đột tử cho một người nhất định, và trái lai, việc xuất gia, sống lánh ở một Thánh địa rất có thể thay đổi số phận của một con người.
Ở Nam Ấn, trong vùng cư trú của người Tamils, người ta tin rằng, số phận một con người đã được an bài sẵn, khi mới sanh và được ghi trên trán bằng những dấu hiệu đặc biệt mà chỉ có những thầy tướng giỏi mới giải mã và cho biết được.
C. DO THÁI GIÁO VÀ VẤN ĐỀ SỐ MỆNH
Người Do Thái cổ đại tin là những sự kiện lớn của lịch sử dân tộc Do Thái đều do Thượng Đế an bài sẵn, mà dân tộc Do Thái phải phục tùng. Quân đội ngoại quốc xâm lăng Isarel chiếm cứ Isarel, đày biệt xứ dân Do Thái đi nơi khác, như là đế頱uốc Assiri và Babylon, và sau này đế quốc La Mã từng làm, tất cả những tai hoạ đó giáng xuống đầu dân Do Thái đều không phải ngẫu nhiên mà là do dân Do Thái đã không trung thành với liên minh mà tổ tiên họ là tiên tri Moise, đã thay mặt họ ký kết với Yahve trên núi Sinai…. Như vậy là số phận của một dân tộc Do Thái do hai yếu tố quyết định: Một là những việc làm của bản thân dân tộc đó phản bội lại liên minh với Thượng Đế. Yếu tố thứ hai là sự trừng phạt của Thượng Đế đối với dân tộc Do Thái. Đó là sự can thiệp của một lực lượng siêu nhiên, siêu việt lên ý chí của con người. Có thể nói, đây là số phận hay số mệnh của dân tộc Do Thái, đã được Thượng Đế Yahve lựa chọn để truyền bá chân lý của đạo Do Thái cho loài người.
D. ĐẠO HỒI VÀ VẤN ĐỀ SỐ PHẬN
Từ Ả Rập ‘maniyab’ là số phận hay số mệnh xuất hiện trong thơ ca Ả Rập ngay trước thời Mahomet. Con người có thể chết vì sự cố, trong chiến tranh hay vì bệnh tật, nguyên nhân sâu xa của cái chết đó là do tiền định. Nhưng sức mạnh gì quyết định sự kiện cái chết của một con người? Là Thượng Đế Allah chăng? Hay là số phận như là một sức mạnh không bị nhân cách hoá. Điều này không rõ, qua văn chương thơ ca Ả Rập, bởi lẽ không phải thi sĩ Ả Rập nào cũng tin đạo Hồi, vì đạo Hồi mãi tới thế kỷ VII sau công nguyên mới xuất hiện.
Thế nhưng trong phạm vi đạo Hồi, nhất là trong Kinh Koran, thì mọi sự kiện, thậm chí mọi hoạt động trong đời sống của một tín đồ đạo Hồi đều do Thượng Đế Allah an bài, quyết định, chứ không phải do số phận hay số mệnh. Ngày tận thế của thế giới cũng do Thượng Đế Allah quyết định, ý chí loài người không dự phần trong việc này. Tuy nhiên các nhà thần học Hồi giáo về sau co xu hướng giảm bớt tính tuyệt đối của sự can thiệp của Thượng Đế vào đời sống con người, và dành một phạm vi nhất định cho hoạt động của ý chí tự do.
Hình như các tôn giáo thần quyền, ngày càng thiên về thuyết không phải Thượng Đế an bài tất cả, quyết định tất cả, và con người dù là sản phẩm do Thượng Đế tạo ra, nhưng vẫn có một phạm vi ý chí tự do nào đó, khiến nó có thể phạm sai lầm và chịu sự trừng phạt của Thượng Đế, điển hinh là nhân vật Adam của đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa, tuy do Thượng Đế tạo ra nhưng vẫn ăn trái cấm, ngược với lời dạy của Thượng Đế … do đó mà phạm tội gốc, tức là nguyên tội.
Có thể nói, trong các thuyết của các tôn giáo lớn, chỉ có thuyết Karma (nghiệp) của Ấn Độ giáo là tương đối (chứ không phải đồng nhất) với thuyết nghiệp của Phật giáo. Tuy nhiên, cần nhớ rằng: Phật giáo nói nghiệp nhưng cũng nhấn mạnh đến tính bất định của nghiệp, nghiệp có thể chuyển được. “Người là chủ nhân đồng thời cũng là thừa tự của nghiệp (Trung Bộ III, Kinh ‘Tiểu Nghiệp Phân Biệt’).
E. DỊCH HỌC VÀ SỐ MỆNH
Hỏi: Phật giáo có phản đối các chuyện như là xem tướng số, bói toán hay không?
Xin trả lời: Chuyên môn của Phật giáo là giác ngộ và giải thoát, không phải là tướng số. Vì vậy mà trong Kinh Di Giáo ngay trước khi Phật niết-bàn, Phật từng khuyên học trò mình là tăng sĩ không nên bói toán và xem tướng số. Trong năm môn học được giảng dạy ở các trường đại học Phật giáo trước đây ở Ấn Độ không có môn tướng số và bói toán, tuy có dạy các môn thế học như là Thanh minh (ngôn ngữ), Công xảo minh (tiểu thủ công nghệ), Y phương minh (chữa bịnh), Nhân minh (logic học)…
Lại hỏi: Dịch học cũng là môn học bói toán, Phật giáo có phản đối dịch học hay không?
Trả lời: Không! Phật giáo không phản đối Dịch học. Vì dịch học dược xem như là bộ môn triết học của Trung Hoa, do các bậc Thánh Trung Hoa thời xưa là Phục Hy, Văn Vương, Chu Công và Khổng Tử sáng lập và hoàn chỉnh.
Nhưng dịch học, theo bản ý của các bậc Thánh đó, không phải là môn học mới có, mà là một môn triết học bàn về đạo lý thịnh suy, lành dữ, hạnh và bất hạnh của cá nhân và xã hội, đất nước và tinh thần của dịch học là “đức năng thắng số” chứ không phải là con người phục tùng số mệnh. Tôi tuy không phải là người nghiên cứu chuyên môn về dịch học nhưng cũng có nghiên cứu qua sách dịch, không phải là để xem chơi như vua Trần Nhân Tôn nói trong chương I, bài phú “Cư Trần Lạc Đạo” [1], mà vì có giảng về triết Phương Đông ở một số trường đại học và ở Học viện Phật giáo. Giảng triết Phương Đông, nhất là triết Trung Hoa mà không nói gì về dịch học thì e thiếu sót. Tuy chỉ có biết đôi chút về dịch học, nhưng với cái sơ học của mình, cũng thấy được bản ý của các bậc Thánh lập ra môn dịch học không phải là bói toán, trái lại bói toán chỉ làm dung tục hoá môn dịch học mà thôi. Học giả Trung Hoa Phó Lệ Phát trong cuốn “Quốc Học Khái Luận” (Đài Bắc xb, trg.40) viết rất đúng:
“Bản ý của Văn Vương làm Chu Dịch là để dạy người cái đạo lý trị loạn, thịnh suy, được mất. Người đời sau dùng để bói toán, thực không phải là bản ý của Văn Vương”[2]
Hơn nữa, nếu chúng ta xem kỹ một số lời giải của Văn Vương hay các lời giải các hào của Chu Công thì chúng ta se thấy các bậc Thánh này nhấn mạnh vai trò của đức, của nỗ lực đạo đức của cá nhân hơn là số. Nghĩa là dù gặp phải cảnh ngộ khó khăn, gian khổ, nhưng nếu biết giữ đức hạnh, sống chính đáng thì dữ biến thành lành, hung biến thành cát. Rõ ràng, đó là quan điểm “đức năng thắng số” tuy các bậc thánh không nói rõ như vậy.
Để minh hoạ, có thể dẫn chứng câu sau đây trong Văn Ngôn Truyện là một cuốn sách chủ yếu giải thích hai quẻ Càn và Khôn:
“Tích thiện chi gia tất hữu dư khương, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương…”. Nghĩa là: nhà tích chứa nhiều điều thiện thì sẽ có thừa điều lành, nhà tích chứa nhiều điều ác thì sẽ gặp nhiều chuyện dữ…
Gia đình như vậy, cá nhân cho tới đất nước, xã hội cũng đều như vậy. Trị nước mà tàn bạo, hà hiếp, bóc lột dân quá đáng thì dân sẽ làm loạn. Cá nhân sống ác, thì gặp nhiều bất hạnh, nếu làm thiện thì sẽ gặp may mắn, đó là đạo Trời, là luật tắc tự nhiên. Dịch học tuy bàn chuyện hưng vong, thịnh suy và đắc thất nhưng cuối cùng vẫn khẳng định con người sống phải có đức, trị nước cũng phải có đức thì mọi việc mới thông suốt, hài hoà (sách Dịch dùng các từ hanh thông) chính đáng, bền vững (sách Dịch dùng các từ lợi, trinh).
III. PHẬT GIÁO DÙNG THUYẾT NGHIỆP THAY CHO THUYẾT SỐ MỆNH
A. ĐỊNH NGHĨA NGHIỆP LÀ GÌ?
Nghiệp là hành động có dụng tâm, hành động mà không có dụng tâm thì không phải là nghiệp theo đúng nghĩa của từ này. Một người lái xe không cẩn thận, cán chết người, người đó có thể mang tội ngộ sát, phải trả tiền bồi thường và ngồi tù. Nhưng thật ra, anh ta không có tạo nghiệp sát sinh, anh ta chỉ là một cái duyên, hay là một điều kiện để người bị cán chết trả một món nợ cũ, một cái nghiệp cũ, khiến anh ta bị cán chết. Lạnh lùng mà nói, tình hình đích thực là như vậy, nếu chúng ta có một nhận thức sâu sắc về thuyết nghiệp. Trong đời này, không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên hết, mọi sự việc, quá trình xảy ra đều có nhân duyên của nó. Có đủ nhân, đủ duyên và đúng thời, từ sự việc xảy ra tốt hay xấu, lành hay dữ, may mắn hay bất hạnh. Mọi sự việc xảy ra đều tương ứng với nhân duyên. Nhưng đây là nghiệp chứ không phải là số mệnh.
B. DẪN NGHIỆP VÀ MÃN NGHIỆP- HAI LOẠI NGHIỆP QUAN TRỌNG
Nghiệp có nhiều loại, nhưng Phật giáo thường chú ý hai loại chính la dẫn nghiệp và mãn nghiệp. Dẫn nghiệp là nghiệp dắt dẫn chúng sanh đi vào một trong sáu cõi, trong số này có ba cõi thiện là cõi loài trời, cõi loài A-tu-la và cõi loài người. Và ba cõi ác là cõi loài người rất nhiều, mắt ta không thấy họ, nhưng không phải là không tồn tại. Dân gian không biết, gọi họ bằng đủ các thứ tên như thần, tiên, quỷ….Trong các loại chúng sanh sống ở cõi ác, co hai loại mắt người không thấy được là chúng sanh loài quỷ đói và chúng sanh loài địa ngục. Loài quỷ đói là loài chúng sanh do cấu tạo sinh lý (bụng rất to, nhưng cổ họng rất bé) cho nên luôn luôn bị đói. Chúng sanh ở địa ngục thì bị khổ triền miên, khổ ở mức loài người không tưởng tượng nổi. Còn súc sanh thì rất nhiều loại, không thể biết xuể được, nhưng chúng có đặc tính chung là hay cấu xé lẫn nhau, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Loại súc sanh quen thuộc nhất là gia súc như chó, mèo, gà, lợn, ngựa, trâu. Chúng nó sống khổ thế nào, chúng ta đều biết. Nhưng có điều nhiều người không biết là nếu không sống thiện, không tu tập và sống lối sống ngu si như súc vật thì sau khi chết, chúng ta có thể tái sanh, và làm súc vật. Rất có khả năng đó, chúng ta không thể xem thường.
Cho nên, ít nhất chúng ta phải biết cơ chế vận hành của nghiệp, đặc biệt là loại nghiệp gọi là dẫn nghiệp. Mục đích là dùng cơ chế vận hành của nghiệp để cuộc sống chúng ta có ý nghĩa, để cho chúng ta chủ động tạo ra những nghiệp có cường độ mạnh để cho đời này cũng như ở các đời sống sau, chúng ta không bị đoạ vào các cõi ác, khổ và luôn tái sanh vào các cõi lành, cõi thiện, dẫn chúng ta đến mục đích cao nhất là giác ngộ và giải thoát.
Vì dẫn nghiệp quyết định hướng tái sanh, cho nên cũng có tên gọi là tái sanh nghiệp, với tiếng Anh tương đương là reproductive kamma. Kamma là tiếng P li nghĩa là nghiệp, còn tiếng Sanskrit tương đương là karma, một từ mà sách Tây Phương rất hay dùng để chỉ nghiệp.
Tái sanh nghiệp hay dẫn nghiệp là những hành động tạo nghiệp có cường độ mạnh hoặc thiện hay bất thiện, quyết định hướng tái sanh của một chúng sanh cũng như những sự kiện chủ yếu ở đời sau của chúng sanh đó. Sau đây, tôi xin đưa vài ví dụ minh hoạ, trước hết những hành động tạo nghiệp cực ác, quyết định không tránh khỏi hướng tái sanh của một chúng sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói, súc sanh. Đó là các hành động cố ý giết cha mẹ, bậc Thánh A-la-hán, làm chảy máu Phật và phá sự hoà hợp của Tăng chúng. Nếu phạm vào một trong năm nghiệp ác nói trên, thì nhất định phải tái sanh vào cõi sống ác, khổ. Năm trường hợp nói trên là những trường hợp cực đoan, còn nói chung sống buông thả, không giữ năm giới, không làm điều thiện thành thói quen, với tâm ác không biết sửa chữa đều có nguy cơ sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói và súc sanh, và dù có may mắn được tái sanh làm người thì sẽ là người sống bất hạnh như chết yểu, tật nguyền, hay ốm đau bị người đời khinh rẻ….
C. CƯỜNG ĐỘ CỦA NGHIỆP QUYẾT ĐỊNH Ở CHỖ DỤNG TÂM
Yếu tố gì tạo ra cường độ mạnh của nghiệp, khiến cho nghiệp đó quyết định hướng tái sanh của chúng sanh đó. Chủ yếu là dụng tâm khi tạo nghiệp. Thí dụ tạo nghiệp sát với tâm tham, tâm sân. Gần đây trên báo đăng vụ giết người ở cửa hàng vàng Kim Sinh (Hà Nội). Kẻ cướp đã giết bốn mạng người một lúc để cướp vàng, đó là thí dụ sát sanh vì lòng tham. Trên báo hằng ngày cũng từng đăng tin một cô gái chỉ vì ghen tức đối với người con riêng (một con bé năm tuổi) của chồng mình đã nhẫn tâm quẳng con bé đó xuống sông Hồng. Sát sanh với tâm sân giận và ghen tức là loại nghiệp rất mạnh, có thể khiến kẻ phạm tội đoạ vào cõi ác không tránh khỏi.
Đối với nghiệp thiện cũng vậy, cường độ của nghiệp thiện chủ yếu do ở chỗ dụng tâm, chứ không phải do ở quy mô và hình thức của sự việc. Trong đạo Phật có câu: làm việc đạo với cái tâm đời, tức là tâm danh lợi, thì việc đạo biến thành việc đời, còn làm việc đời với tâm đạo, tức là cái tâm vì lợi ích của đạo và của chúng sanh, thì việc đời cũng biến thành việc đạo.
Quan điểm trên về nghiệp giải phóng những người nghèo hèn khỏi nỗi bức xúc của mình quá nghèo hèn, quá túng thiếu, muốn làm việc thiện, muốn giúp người nhưng không biét xoay sở thế nào.
Trong Kinh 42 Chương, có nói tới hạnh tuỳ hỷ bố thí. Đó là hạnh chia sẻ niềm vui với người khác. Nếu sự chia sẻ niềm vui đó là thật lòng, không chút gì ghanh ghét thì công đức của hạnh bố thí tuỳ hỷ đó cũng là vô lượng, cũng như một ngọn đuốc có thể giúp cho bao nhiêu nhà được thắp sáng, nấu chín cơm, sưởi ấm v.v… Mà để bố thí tuỳ hỷ có cần phải có gì đâu, mà chỉ cần có tấm lòng biết chia sẻ niềm vui của người khác mà thôi.
Đại Sư Trung Hoa Trí Khải trong bài tựa cuốn “Đồng Mông Chỉ Quán”, kể trường hợp một Sa-di trẻ ở cùng chùa một vị trụ trì đã chứng quả A-la-hán. Vị trụ trì chùa xem tướng học trò biết trong vòng một tuần nữa học trò mình sẽ chết bệnh, không thể tránh khỏi, bèn lẳng lặng cho học trò mình về thăm nhà. Anh học trò lên đường về nhà thấy một ổ kiến trên bờ đê đang bị một dòng nước xoáy hất vào bờ đê, đe doạ cuốn trôi đi. Thầy Sa-di trẻ động lòng thương lũ kiến đang nháo nhác, bèn cởi quần áo nhảy xuống sông, ra sức hàn lại chỗ đê có thể bị vỡ để cứu ổ kiến. Cứu được ổ kiến, thầy Sa-di về nhà và sau một tuần trở lại chùa. Vị A-la-hán thấy học trò mình trở lại chùa an toàn, khí sắc lại còn hồng hào hơn xưa, rất lấy làm lạ, bèn hỏi cặn kẽ đầu đuôi chuyện cứu ổ kiến. Vị trụ trì kết luận là do thầy Sa-di phát tâm từ bi rộng lớn cứu ổ kiến cho nên đã chuyển nghiệp, đáng lẽ phải chết trong vong một tuàn lại vẫn sống an toàn và còn tiếp tục sống thọ trong nhiều năm nữa.
Câu chuyện trên cũng tương tự chuyện một bà già ăn mày sống trong thời Phật muốn cúng dường Phật một ngọn đèn mà không đủ tiền để mua dầu. Đi ăn xin ky cóp mãi được một đồng,nhưng khi di dến cửa tiệm thì chủ tiệm lại nói một đồng không đủ để mua dầu thắp đèn. Nhưng vì chủ tiệm cảm lòng thành của bà già cho nên vẫn bán. Cuối cùng bà già cũng có được một ngọn đèn cúng dường phật, không phải đặt trong tịnh xá nơi Phật thuyết pháp mà chỉ được đặt ở ngoài vườn. Ấy thế mà sau buổi thuyết pháp của Phật, người ta đi dập tắt tất cả ngọn đèn trong nhà tịnh xá cũng như ở ngoài vườn, mọi ngọn đèn đều dập tắt dễ dàng, chỉ riêng ngọn đèn của bà ăn mày cúng Phật thì người ta thổi mãi, dập mãi mà không làm sao dập tắt được, kể cả ngài Mục-kiền-liên là học trò thần thông đệ nhất của Phật cũng bất lực. Được hỏi về sự kiện lạ lùng này, Phật nói đó là sức mạnh lớn lao của lòng chí thành cúng dường Phật cua r bà già. Với tâm thành lớn như vậy, thì dù cúng dường một ngọn đèn nhỏ cũng đem lại cho bà ấy công đức vô lượng, khiến cho chư thiên cũng cảm ứng, che cho ngọn đèn không bị dập tắt.
Trong lịch sử truyền đạo của đức Phật, cũng không hiếm chuyện minh chứng cho khả năng chuyển nghiệp của những người tuy từng phạm nhiều tội ác trong quá khứ nhưng sau khi được gặp Phật, được nghe pháp và thật thà ăn năn hối lỗi, cải tà qui chánh một lòng tin đạo và hành đạo, thì rồi ngay trong đời này cũng chứng được quả Thánh. Đó là trường hợp nổi tiếng của Angulimala, vốn là một tên tướng cướp tàn bạo của vương quốc Kosala, trường hợp của dâm nữ Ambapali ở Vaisali, cả hai đều xuất gia theo Phật, tu hành không bao lâu đều chứng quả Thánh A-la-hán.
Nói tóm một câu, dụng tâm là yếu tố quyết định tính chất và cường độ của nghiệp. Dụng tâm trong kinh tạng Pa li còn gọi là tác ý, cho nên Phật định nghĩa nghiệp là tác ý. Khi đã tác ý, theo hướng nghiệp thiện hay ác, thì tức là ta đã tạo nghiệp thiện hay ác rồi. Người bình thường không hiểu cơ chế vận hành của nghiệp cho nên rất hay xem thường, thậm chí ngay đối với lời nói, họ cũng nói một cách vô tâm: lời nói bay đi, lời nói vô bằng. Không biết rằng, ngay những ý nghĩ thoáng qua đầu chúng ta còn là nghiệp, huống hồ là lời nói. Có lẽ, vì để răn dạy người ta, đừng nên coi thường sự bất thiện nơi lời nói,蠦#273;ạo Phật phân tích có tới bốn điều bất thiện nơi lời nói: nói dối, nói ác, nói chia rẽ và nói vô nghĩa, còn sự bất thiện nơi thân thì chỉ có ba là sát sanh, lấy của không cho và tà dâm, còn sự bất thiện nơi tâm cũng chỉ có ba là tham, sân và si hay tà kiến.
D.KHÔNG ĐƯỢC COI THƯỜNG VIỆC NHỎ
Mà cũng vì vậy, Phật luôn răng dạy chúng ta không nên coi thường những nghiệp thiện hay ác dù là nhỏ, cũng như một đốm lửa nhỏ có thể đốt cháy đống rơm cao như núi, cũng như giọt nước nhỏ mãi rồi cũng làm bình lớn đầy tràn.
Kinh Pháp Cú có các bài kệ:
“Chớ chê khinh điều thiện,

Cho rằng chưa đến mình,

Như nước nhỏ từng giọt,

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người trí chứa đầy thiện,

Do chất chứa dần dần”.

(Bài kệ 122, bản dịch từ Pa li: HT.Thích Minh Châu, tr.74)
Lại viết:
“Chớ chê khinh điều ác,

Cho rằng chưa đến mình,

Như nước nhỏ từng giọt,

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người ngu chứa đầy ác,

Do chất chứa dần dần.”

(Bài kệ 121, bản dịch từ Pa li: Thích Minh Châu, tr. 73)
Đ. LỢI ÍCH CỦA VIỆC TU TẬP TÂM
Tuy nhiên, cần chú ý là theo đạo Phật, dù là nghiệp nơi ý, nơi lời nói hay nơi thân, căn bản vẫn là ở chỗ dụng tâm, ở chỗ chúng ta tu tập tâm hằng ngày, khiến cho tâm ta trở thành thuần thiện, không bao giờ nghĩ ác, chỉ nghĩ toàn điều lành. Một người biết tu tập tâm như vậy, tuy rằng chưa đạt tới đích giác ngộ và giải thoát như các bậc Thánh, Phật, hay A-la-hán, nhưng có thể nói là đã trên con đường thẳng, dẫn tới đích giác ngộ và giải thoát tối hậu rồi. Hơn nữa, trên bước đường dài dẫn tới mục đích tối hậu đó, con người thiện nhất định sẽ không bị đoạ vào cõi ác.
Kinh Pháp Cú ví người như thế như bàn tay không thương tích mà cầm thuốc độc vậy, không can gì hết.
Kinh Pháp Cú cũng nói người ác làm hại người hiền cũng như kẻ ngu ngược gió mà tung bụi, bụi chỉ rơi vào mình mà không dính người:
“Bàn tay không thương tích,

Có thể cầm thuốc độc….”

(Kệ 124, Kinh đã dẫn, tr.75)
“Hại người không ác tâm,

Người thanh tịnh không uế,

Tội ác đến kẻ ngu,

Như ngược gió tung bụi….”

(Kệ 125, Kinh đã dẫn, tr.75)
Nói tóm một câu, quyết định tính chất và cường độ của nghiệp là cái tâm của mình, là ở trong lòng mình.
“Thiện căn ở tại lòng ta”

Tu Phật, trước hết và chủ yếu là tu tâm.

Vì không phải chỉ vì “chữ tâm kia bằng ba chữ tài”, như thi sĩ Nguyễn Du nhắn nhủ chúng ta, mà vì đức Phật cũng đã từng khuyến cáo chúng ta:
“Kẻ thù hại kẻ thù,

Oan gia hại oan gia,

Không bằng tâm hướng tà,

Gây ác cho tự thân.”

(Kệ 42, Kinh Pháp Cú)

“Điều mẹ cha, bà con,

Không thể nào làm được,

Tâm hướng chánh làm được,

Làm được tốt đẹp hơn.”

(Kệ 43, Kinh Pháp Cú)

E. VẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP
Nghiệp là sức mạnh lớn, khi nó là cộng nghiệp của một số đông người vì không phải một mà là một số đông người tạo ra nó, và số đông ấy có thể là cả loài người, cả một quốc gia, dân tộc hay một vùng, một địa phương.
Cộng nghiệp của cả một dân tộc đan xen với biệt nghiệp của từng cá nhân khiến cho cơ chế vận hành của nghiệp khá phức tạp, mà chỉ có bậc Thánh như Phật mới hiểu được tất cả ngọn nghành chi tiết.
Trong kinh chép lời Phật: “Với thiên nhãn thuần tịnh, vượt xa tầm nhìn loài người, Ta thấy chúng sanh chết và tái sanh như thế nào, Ta thấy những người cao quý và kẻ nghèo hèn, kẻ xuất sắc và kẻ bần tiện, mỗi người dều theo nghiệp của mình tạo ra mà có được thân phận hạnh phúc hay bất hạnh”.
(Chuyển dịch từ bản tiếng Anh: “The Tibetan Book of Living and Dying”, Sogyal Rinpoche, tr.92)
Chúng ta không có được thiên nhãn thanh tịnh để có thể được như Phật nắm bắt được tất cả cơ chế vận hành phức tạp của nghiệp, nhưng tối thiểu, chúng ta cũng biết được đại khái, nhưng rất là đúng đắn: “Ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão”.
Đó là sự minh triết của nhân dân Việt Nam, mà tổ tiên, cha ông đã tin theo đạo Phật gần hai mươi thế kỷ nay rồi, khiến cho một thuyết quan trọng và phức tạp như thuyết nghiệp ảnh hưởng đến tâm lý của dân ta đến nỗi, mỗi lần có sự cố bất hạnh xảy ra cho một người, một gia đình hay thậm chí cả một vùng, chúng ta buột mồm nói: “Tội nghiệp”. Đó là tội của nghiệp, nghiệp báo của từng người và là nghiệp báo chung, gọi là cộng nghiệp của số đông.
Nghiệp chính là quy luật nhân quả tác động trong phạm vi của nhân sinh. Đạo Phật nói quả nào nhân ấy. Một khi quả chín mùi và xảy ra, thì chúng ta biết đó không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả hợp thành của những nhân duyên đã từng được tạo ra và nay chín mùi.
Nhưng đạo Phật không nói một cách máy móc: nhân nào quả ấy.
Vì sao? Vì hằng ngày chúng ta không ngừng tạo nghiệp bằng ý nghĩ, lời và thân hành động. Nghiệp này tiếp nối nghiệp kia, nghiệp sau tác động trở lại nghiệp trước v.v…
Chính vì vậy mà đạo Phật không nói số mệnh hay số phận, mà nói bất định nghiệp và chuyển nghiệp. Đó là ranh giới phân biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác, kể cả với Ấn Độ giáo khá gần gũi với Phật giáo, vì Ấn Độ giáo cũng nói nghiệp (Karma).
Dẫn nghiệp hay còn gọi là năng sanh nghiệp chỉ là những loại nghiệp có cường độ mạnh, quyết định hướng tái sanh của một chúng sanh. Thí dụ tất cả chúng ta ở đây đều là người, chúng ta biết chắc là trong đời trước chúng ta đã tạo ra dẫn nghiệp (hay tái sanh nghiệp) khiến chúng ta có được thân phận người, nhưng giữa chúng ta ở đây thôi, trong phạm vi cái phòng này đã có bao nhiêu sai biệt như già và trẻ, khoẻ và yếu, nam và nữ, đẹp và xấu, và mỗi người chúng ta đều là thành viên của mỗi gia đình khác nhau, với những cảnh ngộ khác nhau. Do vậy, ngoài dẫn nghiệp quyết định thân phận là người của chúng ta, chúng ta còn tạo ra một loại nghiệp nữa, có cường độ yếu hơn dẫn nghiệp mà sách Phật gọi là mãn nghiệp (sách tiếng Anh dịch là supportive karma), cũng có sách khác dịch là năng trì nghiệp.
F. KHÁI NIỆM MÃN NGHIỆP
Mãn nghiệp hay năng trì nghiệp giải thích vì sao cũng là một thân phận người mà có người hạnh phúc, người bất hạnh, người sang kẻ nghèo hèn, người thì có uy tín nói ai cũng theo, trái lại có người nói rất giỏi nhưng không ai tin, người đẹp, kẻ xấu xí, có cô gái đẹp lại lấy phải ông chồng xấu xí, lại có anh chồng xấu xí lại được người vợ đẹp sánh Hằng Nga tái thế .v.v…Sao lại có những chuyện như vậy? Tất cả những chuyện sai biệt như vậy đều là quả báo của mãn nghiệp hay là năng trì nghiệp.
Một câu hỏi: Loại mãn nghiệp này là bất khả kháng hay là có thể chuyển được? Xin trả lời: Thuyết nghiệp của Phật giáo là bất định nghiệp, là nghiệp có thể chuyển. Đã có bao nhiêu người sinh ra với sức khoẻ rất yếu nhưng nhờ dày công luyện tập mà trở thành lực sĩ. Bác sĩ Nguyễn Khắc Việt chỉ có 1/3 lá phổi mà sống đến tuổi hơn 80. Triết ra Đức rất nổi tiếng là Kant, vốn lúc bé rất ốm yếu nhưng nhờ sinh hoạt, làm việc rất đều đặn và có giờ giấc mà sống rất thọ…
Có thể giới phụ nữ thấy rõ khả năng chuyển nghiệp hơn nam giới chúng ta nữa. Vì nhờ ăn uống có chế độ và luyện tập siêng năng, người phụ nữ béo phì có thể trở thành mảnh mai, người phụ nữ gầy có thể trở thành có da có thịt, rồi lại thêm phấn son vào nữa.v.v…thì xấu cũng thành đẹp, hấp dẫn.
G. KHÁI NIỆM NĂNG TIÊU NGHIỆP.
Vì vậy mà Phật giáo đưa ra khái niệm gọi là năng tiêu nghiệp mà sách Anh ngữ có khi dịch là counteractive karma hay là impeding karma. Loại nghiệp này tuỳ thuộc vào tình hình mà có thể là tốt hay xấu.
Có thể đưa ra những ví dụ sau đây để minh hoạ: Một người sinh ra có tư chất thông minh, nói theo danh từ khoa học hiện nay là có gen thông minh, nhưng người đó lai sinh ra trong một gia đình giàu có, được cha mẹ nuông chiù, cho nên không chịu học hành, chỉ suốt ngày chơi bời khiến cho tính chất thông minh bẩm sinh của mình bị thui chột đi và cuối cùng anh ta trở thành một gã bất tài, vô dụng ở đời. Những loại nghiệp anh ta đã tạo ra đều thuộc loại năng tiêu nghiệp xấu và tiêu cực, huỷ hoại bẩm tính thông minh của anh. Bẩm tính thông minh đó cũng không phải ngẫu nhiên mà chính do anh ta nuôi dưỡng, huân đúc trong một đời trước.
Còn những ví dụ minh chứng các loại năng tiêu nghiệp tích cực thì rất nhiều. Chỉ cần dẫn chứng trường hợp của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hay bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng là đủ, vì ai cũng biết đều là chuyện việc thật, người thật.
H. DẪN NGHIỆP CÓ THỂ CHUYỂN ĐƯỢC KHÔNG?
– NĂNG HUỶ NGHIỆP.
Nhưng có người lại hỏi: Ừ, mãn nghiệp có cường độ yếu nên có thể chuyển được, chúng tôi đồng ý, nhưng dẫn nghiệp có thể chuyển được không?
Trả lời: Dẫn nghiệp cũng có thể chuyển trong những trường hợp sau: Đúng là sau khi đã sanh ra làm người, có thân phận người, thì không thể chuyển được thân phận người thành một thân phận không phải người. Thí dụ như các đạo gia mơ tưởng uống thuốc trường sanh bất lão và bất tử, trở thành thần, thành tiên ngay trong cõi thế này.
Tôi nghĩ rằng bàn những chuyện như thế này là vô ích, vì nếu có một người như Từ Thức chăng thì chỉ cũng là một người nên miễn bàn là hơn.
Nhưng đạo Phật có khái niệm “năng huỷ nghiệp” để giải thích những trường hợp tuy có người thọ mạng vẫn còn nghiệp lực của tái sanh vẫn còn, nhưng vì những người này trong một đời sống trước hay thậm chí trong đời sống này có tạo ra những nghiệp cực mạnh, có khả năng tiêu huỷ thân phận người của họ, thì họ vẫn có thể mất thân phận người như thường. Đó là những trường hợp chết đột tử hay bất đắc kỳ tử, như là trong các trường hợp chết vì thiên tai, chết vì tai nạn máy bay hay xe cộ. Người bình thường gọi đó là những trường hợp ngẫu nhiên bất hạnh, hay là số mệnh. Nhưng theo đạo Phật, đó là nghiệp, là tác động của một loại nghiệp gọi là năng huỷ nghiệp, nó tiêu huỷ thân phận người ngay khi người đó đang sống bình thường. Người đó trong một đời sống quá khứ hay thậm chí ngay cả trong đời này, đã tạo ra một loại nghiệp có cường độ mạnh đủ sức tiêu huỷ một dẫn nghiệp được tạo ra trước đó, quyết định thân phận người. Sách phật thường ví dụ tác động của loại nghiệp này như một cơn gió thổi tắt một ngọn đèn, tuy rằng ngọn đèn đó có thừa dầu và bấc.
IV. KẾT LUẬN: NGƯỜI LÀ CHỦ NHÂN CỦA NGHIỆP
Nói tóm lại một câu, có thể dẫn chứng lời Phật trong Kinh “Tiểu Nghiệp Phân Biệt” (Trung Bộ III): “Người là chủ nhân của nghiệp, cũng là thừa tự của nghiệp…” Nghiệp do chính mình tạo ra và nghiệp trở lại chi phối mình. Cũng như Nguyễn Du nói rất đúng trong Kiều
“Đã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”.

Chính chúng ta không phải một thần linh nào hết quyết định đời sống chúng ta, và chúng ta quyết định nó bằng hoạt động hàng ngày, hàng giờ, phút trong cuộc sống. Nếu tâm chúng ta hướng thiện thì chúng ta tạo nghiệp thiện, hưởng quả báo thiện trong đời này và đời sau. Quy luật nghiệp báo là quy luật nhân quả, giản dị, không có gì khó hiểu, không cần phải mượn tới sức mạnh của thần linh hay sức mạnh mù quáng của số phận để giải thích. Thuyết nghiệp của đạo Phật không những là khoa học và công bằng, nó còn tôn vinh trách nhiệm và giá trị con ngươ詮 Nó thúc đẩy con người luôn hoàn thiện mình, sống đạo đức, có lý trí và theo lẽ phải. Nó nâng cao giá trị con người chứ không hạ thấp giá trị con người. Nó khích lệ con người hành động và tiến bộ. Nó không dạy con người sống tiêu cực và yếm thế. Thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu được lý giải đúng đắn và mọi người hiểu thấu và thực hành sẽ đem lại bao nhiêu điều tốt đẹp cho xã hội và đất nước chúng ta trong thiên niên kỷ mới sắp đến này. Quá khứ đã qua rồi, tương lai lại chưa đến, mọi người chúng ta hãy tỉnh giác và có ý thức sống trong hiện tại từng giờ, từng phút nghĩ lành, nói lành, làm lành. Đó chính là nghiệp, là thuyết nghiệp không phải trên bình diện lý thuyết mà là trong cuộc sống, trong thực hành.
Triết gia Mỹ William James, chắc là có chịu ảnh hưởng của thuyết nghiệp của đạo Phật đã nói câu:
“Chúng ta đang dệt đời bằng một sợi chỉ không tháo gỡ ra được” (Nous tissions notre vie d’un qui ne se défera pas).
Câu nói của Nguyễn Du và của William James sẽ hoàn toàn đúng với tinh thần thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu thêm vào cái đuôi như sau:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”

Thêm cái đuôi: Tuy nghiệp đã mang vào thân rồi, nhưng vẫn gỡ ra được, nếu chúng ta biết ăn năn sửa chữa lỗi lầm, từ nay tránh mọi điều ác, làm mọi điều lành, giữ tâm ý luôn trong sạch, hướng thiện. Với câu của William James, chúng ta cũng thêm, chúng ta dệt đời chúng ta với sợi chỉ không phải không tháo gỡ được mà vẫn có thể tháo gỡ và dệt lại được, nếu…(như đoạn trên thêm vào câu của Nguyễn Du).
Và theo lời khuyên của hai vị, chúng ta hãy mang trên thân mình toàn là nghiệp lành, hãy dệt đời chúng ta toàn bằng nghiệp lành, nghiệp thiện trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm hằng ngày. Và nhất định, hạnh phúc sẽ đến với chúng tả trong cả đời này và đời sau.